Phấn đấu đến 2030 thu hút 50-55% học sinh trung học vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp
Ban Bí thư vừa ban hành Chỉ thị số 21-CT/TW về việc tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp (GDNN) đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045.,
Để tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng GDNN đến 2023, tầm nhìn đến 2045, tạo đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Ban Bí thư vừa ban hành Chỉ thị số 21/CT-TW nhằm đề ra một số mục tiêu cụ, nhiệm vụ cụ thể cho GDNN.
Trong thời gian qua, mạng lưới cơ sở GDNN phát triển mạnh; bước đầu hình thành một số cơ sở đào tạo và chương trình đào tạo chất lượng cao theo chuẩn quốc tế. Cùng với đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề có bằng cấp, chứng chỉ; tỷ lệ lao động có việc làm phù hợp với kỹ năng nghề và trình độ đào tạo tăng; lao động Việt Nam từng bước tham gia và đảm nhận nhiều vị trí công việc trước đây do chuyên gia nước ngoài đảm nhiệm...
Tuy nhiên, quy mô GDNN còn nhỏ; cơ cấu ngành, nghề, trình độ đào tạo chưa phù hợp; chất lượng, hiệu quả đào tạo chưa cao. Đặc biệt, nguồn lực đầu tư cho phát triển GDNN chưa tương xứng. Gắn kết giữa nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp chưa chặt chẽ...
Vì vậy, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu trọng tâm như sau: phấn đấu đến năm 2030 thu hút 50 - 55% học sinh trung học vào hệ thống GDNN; đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho khoảng 50% lực lượng lao động: có khoảng 90 cơ sở GDNN chất lượng cao, trong đó có một số cơ sở GDNN thực hiện chức năng trung tâm quốc gia, trung tâm vùng. Trong đó, một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4, G20; có khoảng 200 ngành, nghề trọng điểm, trong đó có 15 - 20 ngành, nghề có năng lực cạnh tranh vượt trội trong khu vực ASEAN và thế giới. Đến năm 2045, đáp ứng nhu cầu nhân lực có kỹ năng nghề cao của nước phát triển, đạt trình độ tiên tiền của thế giới.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp về đổi mới, phát triển GDNN. Huy động sự tham gia của xã hội trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp GDNN…
Rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về GDNN, bảo đảm gắn với thị trường lao động theo hướng mở, liên thông, hiện đại, hội nhập và thích ứng. Tăng cường công tác hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông, thực hiện tốt việc phân luồng, tăng tỷ lệ học sinh sau trung học cơ sở vào GDNN; thực hiện vừa đào tạo nghề vừa dạy văn hóa tại các cơ sở GDNN; có chính sách khuyến khích học sinh khá, giỏi vào hệ thống GDNN.
Đẩy nhanh lộ trình phổ cập nghề cho thanh niên, công nhân, nông dân và người lao động thông qua các hình thức hỗ trợ phù hợp. Tôn vinh người lao động có kỹ năng, tay nghề cao; ưu tiên đào tạo nghề cho thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, thanh niên xung phong, người khuyết tật và các đối tượng yếu thế. Phát triển GDNN ở nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo; ưu tiên quỹ đất sạch dành cho GDNN. Khuyến khích phát triển cơ sở GDNN của tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài.
Tiếp tục rà soát, sắp xếp các cơ sở GDNN thuộc các cơ quan, bộ, ngành Trung ương và địa phương, bảo đảm quy mô, cơ cấu và hợp lý về ngành, nghề, trình độ đào tạo, chuẩn hóa, hiện đại hóa, có phân tầng chất lượng, gắn với yêu cầu và xu hướng phát triển của thị trường lao động. Chú trọng các ngành, nghề, lĩnh vực đào tạo có thế mạnh gắn với nhu cầu thị trường lao động…
Đổi mới nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, bảo đảm "học đi đôi với hành", nâng cấp và chuẩn hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện đào tạo. Chú trọng đào tạo kỹ năng nghề gắn với giáo dục đạo đức, lối sống, ý thức kỷ luật, kỹ năng mềm, tác phong công nghiệp, nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng số cho người học; thường xuyên cập nhật, đào tạo lại cho lực lượng lao động nhằm nâng cao khả năng thích ứng với yêu cầu đổi mới công nghệ, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn...
Nâng cao hiệu quả liên kết, hợp tác về GDNN giữa nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp. Khuyến khích doanh nghiệp tham gia GDNN từ khâu tuyển sinh, đào tạo đến sử dụng, thành lập các cơ sở thực hành tại các cơ sở GDNN. Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, gắn kết cung - cầu lao động với GDNN.
Tăng cường nguồn lực, ưu tiên ngân sách nhà nước cho GDNN trong tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục - đào tạo tương xứng với vị trí, vai trò của GDNN, nhất là cho đào tạo nhân lực chất lượng cao, các ngành, nghề trọng điểm, mũi nhọn. Bảo đảm chính sách bình đẳng đối với các cơ sở GDNN công lập và ngoài công lập...
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về GDNN; cập nhật kịp thời các tiêu chuẩn, công nghệ mới trong GDNN. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các kỳ thi kỹ năng nghề khu vực và quốc tế…
Để làm được những việc trên, cần tăng cường nguồn lực, ưu tiên ngân sách nhà nước cho giáo dục nghề nghiệp trong tổng ngân sách nhà nước giao cho giáo dục đào tạo nhằm tương xứng với vị trí, vai trò của giáo dục nghề nghiệp, nhất là cho đào tạo nhân lực chất lượng cao, các ngành nghề mũi nhọn, trọng điểm.