Phật giáo với giáo dục
Ý nghĩa của chữ Phật là giác, tức là trí tuệ. Giáo dục trong Phật pháp là dựa trên lập trường và thái độ của trí tuệ, giúp đẩy mạnh công năng giáo hóa bằng từ bi. Vậy từ bi nghĩa là gì?

Bài trên Báo Giác Ngộ số 1327 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn
Từ là cho đi niềm vui, là đem lại sự an lạc cho người. Bi là cứu khổ, là giúp mọi người thoát khỏi khổ đau, hoạn nạn. Sau khi giúp người thoát khỏi khổ nạn, một mặt chủ động mang niềm vui và hạnh phúc cho mọi người; mặt khác, chuẩn bị cho họ những điều kiện thoải mái nhất. Đây chính là công năng của Phật pháp.
Trong thế giới chúng ta đang sống, thử hỏi nơi nào không có khổ đau? Có ai lại không cần sự an vui? Do đó, đứng trên lập trường của Phật pháp, đối tượng giáo dục là không đặt định giới hạn. Trong bốn điều nhận thức chung của Pháp Cổ Sơn thì phương pháp của chúng tôi là đề xướng giáo dục toàn diện, quan tâm chu đáo về mọi mặt. Đây không chỉ là phương pháp cụ thể trong nền giáo dục của Pháp Cổ Sơn, mà cũng có thể gọi là nền giáo dục của Phật giáo.
Giáo dục thời kỳ thai nhi - cha mẹ là thân giáo
Khi người mẹ mang thai, đối với việc giáo dục thai nhi gọi là thai giáo. Vậy thai giáo là dạy như thế nào? Là dùng lời nói để dạy hay là dùng chữ viết để dạy? Thật ra, phải là người mẹ tự giáo dục chính mình khi đang mang thai. Giáo dục chính mình là không sinh tâm tức giận, không nên xúc động, không nên khởi tham, sân, si. Bởi vì, nếu tâm trạng của người mẹ có vấn đề, cảm xúc không ổn định, thì đứa trẻ trong bụng mẹ liền bị ảnh hưởng của yếu tố xấu.
Theo kinh Phật, chúng ta có thể thấy Đức Phật Thích Ca thuật lại tình huống khi còn ở trong thai mẹ. Ví dụ trong bộ Bản duyên thuộc Đại tạng kinh, có một bộ kinh tên là Phật bản hạnh tập kinh, trong đó nói về quá trình từ lúc Đức Phật Thích Ca nhập thai cho đến khi xuất thai; cũng như việc thực hành thai giáo của mẹ Ngài. Trong kinh văn ghi rằng, mẹ của Đức Phật trong quá trình mang thai, dường như có một vị Bồ-tát đang ở trong bụng của bà, chẳng những trong tâm không khởi một chút phiền não nào, mà từng cử chỉ hành động, mỗi tâm niệm đều có oai nghi, hợp với phép tắc, cho đến phù hợp với chuẩn mực của một bậc Thánh hiền.
Khi người mẹ mang thai, đối với việc giáo dục thai nhi gọi là thai giáo. Vậy thai giáo là dạy như thế nào? Là dùng lời nói để dạy hay là dùng chữ viết để dạy? Thật ra, phải là người mẹ tự giáo dục chính mình khi đang mang thai. Giáo dục chính mình là không sinh tâm tức giận, không nên xúc động, không nên khởi tham, sân, si. Bởi vì, nếu tâm trạng của người mẹ có vấn đề, cảm xúc không ổn định, thì đứa trẻ trong bụng mẹ liền bị ảnh hưởng của yếu tố xấu.
Vì giáo dục thai nhi hết sức quan trọng, cho nên đối với những người mới lập gia đình, tôi đều sẽ nhắc nhở họ rằng, cần phải sớm chuẩn bị giáo dục thai nhi, thay đổi những thói quen sinh hoạt không tốt, làm việc và nghỉ ngơi có khoa học. Bằng không, lúc các vị còn uống rượu, đánh bài, hút thuốc, thậm chí là nghiện ma túy, khi mang thai tức là các vị đã đầu độc đứa con, đầu độc vị tiểu Bồ-tát của mình rồi. Chờ tới lúc sau khi có thai mới bắt đầu chú ý đến giáo dục thai nhi thì đã muộn mất rồi. Hơn nữa, đợi đến lúc đó thì những thói quen đã huân tập không dễ dàng sửa đổi. Nếu có thể thật sự giáo dục thai nhi một cách chu toàn, thì sau khi cha mẹ sinh con ra, bản thân cha mẹ chắc chắn cũng được giáo dục. Vì vậy, vấn đề thai giáo đối với thai nhi và cha mẹ đều rất quan trọng.
Giáo dục thời kỳ trẻ sơ sinh - tưới tẩm từ bi và trí tuệ
Sau khi em bé chào đời, chính là lúc bắt đầu giai đoạn giáo dục thời kỳ trẻ sơ sinh. Đừng cho rằng, trẻ sơ sinh không hiểu gì cả, không giáo dục cũng không sao.
Trong tiếng Anh, trẻ sơ sinh được gọi là nó (It), chứ không gọi là anh ấy (He) hay cô ấy (She). Do trước đây, người ta cho rằng trẻ sơ sinh không biết gì, nhưng thực ra cách nghĩ này là sai lầm.
Người theo đạo Phật cho rằng, trẻ nhỏ đều là những vị tiểu Bồ-tát, chúng ta không những phải tôn trọng các em, mà còn phải để ý quan tâm, giáo dục và rèn luyện cho các em. Tuy trẻ nhỏ chưa hiểu chuyện, nhưng tâm trạng của cha mẹ có thể ảnh hưởng đến trẻ. Do đó, phải dùng lòng từ bi, tình thương và trí tuệ để nuôi dưỡng và dạy dỗ các em. Trong khoảng thời gian này, cha mẹ cũng đang giáo dục chính bản thân mình.
Trước đây, đã từng có đôi vợ chồng sinh được một đứa con, vừa sinh ra đã bị dị tật và chướng ngại về trí tuệ. Bác sĩ nói với họ rằng: “Sau này anh chị phải chịu khổ đến khi đứa trẻ mất đi mới thôi, vì suốt đời nó phải cần có người chăm sóc, anh chị nên chuẩn bị tâm lý”.
Một số người nghe xong, có thể sẽ trốn đi, bỏ mặc đứa trẻ lại bệnh viện, không màng tới. Nhưng đôi vợ chồng này là Phật tử, nên họ nói rằng: “Đây cũng là nghiệp báo của người làm cha mẹ như chúng tôi làm liên lụy đến con cái, khiến con phải chịu khổ nạn. Cho nên, đời này chúng tôi nhất định phải chăm sóc thật tốt đứa trẻ này”.
Sau đó, họ bế đứa bé đến gặp tôi, xin tôi ban cho họ lời chúc phúc. Ngoài việc quan tâm và chúc phúc cho họ, tôi còn nói với đôi vợ chồng này: “Thứ nhất, tận hết khả năng tìm bác sĩ để chữa trị và chăm sóc cho đứa bé. Thứ hai, siêng năng làm Phật sự. Một mặt, thường xuyên thực hành bố thí; mặt khác, phải thường niệm Bồ-tát Quán Thế Âm”. Sau khi nghe lời dạy của tôi, họ không chỉ dùng lòng từ bi lớn, tình thương và sự chu đáo để chăm sóc đứa bé này, mà còn thường trì tụng Thánh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, siêng năng bố thí, vì đứa bé này mà làm các việc công đức.
Chính vì cha mẹ làm được những việc như vậy, xem đứa bé như vị Bồ-tát để chăm sóc, nên đứa trẻ cũng được ảnh hưởng, trên mọi phương diện đều có sự tiến bộ và trưởng thành. Hiện nay, gia đình không những hòa thuận mà sự nghiệp cũng rất tốt đẹp.
Giáo dục thời kỳ nhi đồng - xây dựng tín ngưỡng tôn giáo
Sau khi trẻ bước vào thời kỳ nhi đồng, việc giáo dục ngày càng trở nên quan trọng. Lúc này, người làm cha mẹ nên đưa con cái đến học Phật, tin Phật. Hiện nay, có rất nhiều bậc cha mẹ chính mình quy y Tam bảo, nhưng lại không muốn con cái học Phật. Họ cho rằng, con còn nhỏ chưa có khả năng quyết định, nếu ép buộc chúng đến chùa quy y là không công bằng; nên đợi sau khi chúng trưởng thành, chúng sẽ tự quyết định. Thực ra, quan điểm này hoàn toàn sai lầm. Nếu trẻ từ khi còn nhỏ thường xuyên nhìn thấy hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, lễ lạy Bồ-tát Quán Thế Âm, niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, giảng dạy giáo lý của Đức Phật sẽ giúp trẻ nhỏ mở mang trí tuệ.
Cho nên, việc cho chúng nghe, dạy cho chúng biết về lòng từ bi và trí tuệ, thì tự nhiên khi thấy những con vật nhỏ như ếch, ruồi, kiến,... đều sẽ không nỡ sát hại. Sau khi lớn lên, trẻ sẽ không dễ học đòi các thói xấu. Vì vậy, đừng ngại xây dựng tín ngưỡng tôn giáo cho trẻ từ khi còn nhỏ. Đừng đợi đến khi chúng trưởng thành, bước vào giai đoạn gọi là “thời kỳ nổi loạn”, phát hiện ra trẻ gặp vấn đề rồi mới bắt chúng tiếp nhận tôn giáo, lúc này sẽ rất khó khăn.
Giáo dục học đường - chú trọng giáo dục nhân cách
Giáo dục học đường có thể phân thành giáo dục tri thức, giáo dục nhân cách và giáo dục kỹ năng.
Giáo dục kỹ năng là dạy cho người ta thành thạo một nghề, ngõ hầu trong tương lai họ có thể mưu sinh và duy trì cuộc sống. Giáo dục tri thức là truyền trao kiến thức. Giáo dục nhân cách là làm cho phẩm cách của con người được nâng cao. Trong ba loại hình giáo dục này, giáo dục nhân cách là cơ sở nền tảng, là điều quan trọng nhất.
Tôi đối với học sinh có ba điểm yêu cầu: Thứ nhất là tâm đạo, thứ hai là sức khỏe, thứ ba là học vấn.
Viện nghiên cứu của chúng tôi tuy là nơi để truyền trao tri thức, học vấn, nhưng tôi luôn khuyến khích các em học sinh phải giữ tâm đạo là trên hết.
Ý nghĩa của tâm đạo là gì? Chính là giáo dục nhân cách, giáo dục nhân phẩm. Một người nếu không có tâm đạo, chứng tỏ nhân cách và đạo đức của người đó có vấn đề. Một người phẩm cách có vấn đề mà học vấn lại tốt, đối với xã hội và thế giới của chúng ta là không có ích lợi. Nhất là, người nhân phẩm suy đồi mà học vấn tốt, lại đem cái thông minh, tài trí để phạm tội, thì sự tổn hại tạo ra càng lớn. Do đó, giáo dục phẩm cách là quan trọng bậc nhất. Thà rằng, học vấn khuyết thiếu một chút cũng không sao, nhưng phẩm cách nhất định phải có.
Kế đến là sức khỏe, ngoài thân thể khỏe mạnh ra cũng cần có tâm lý và tinh thần khỏe mạnh. Nếu như thân thể cùng tâm lý không tráng kiện, thì những người này tự họ tạo ra cho mình sự rối loạn, phiền não, đau khổ; đồng thời, họ cũng đem lại phiền toái, gánh nặng và đau khổ cho mọi người xung quanh.
Giáo dục học đường không chỉ nhắm đến ba mục tiêu: giáo dục nhân cách, sức khỏe của thân tâm và truyền đạt tri thức, mà còn phải giống như lời dạy của Khổng Tử: “Hữu giáo vô loại”, tức là đối với bất kỳ ai cũng không để mất lòng tin. Đây cũng chính là điều mà Phật pháp thừa nhận: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, ai cũng có thể thành Phật. Vì vậy, mọi người đều có quyền được giáo dục. Chỉ là, hoàn cảnh khác nhau nên phải cho họ sự giáo dục khác nhau. Đây chính là nguyên tắc cơ bản của giáo dục Phật giáo.
Pháp sư Thánh Nghiêm
Thiền sinh Trường thiền Trúc Lâm dịch
(Theo “佛法與教育”- 法鼓全集, “Phật pháp dữ giáo dục” - Toàn tập Pháp Cổ - Pháp sư Thánh Nghiêm)
Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn/phat-giao-voi-giao-duc-post77894.html











