Phát triển Đường sắt tốc độ cao: Khẳng định vai trò của doanh nghiệp tư nhân
Với tổng mức đầu tư vượt 67 tỷ USD, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam không chỉ là một chương trình hạ tầng quốc gia, mà còn như một bài kiểm tra chiến lược về khả năng tham gia sâu rộng của khu vực kinh tế tư nhân đối với các dự án công có tầm ảnh hưởng lớn.

Ngành đường sắt được dự báo sẽ “lột xác” mạnh mẽ. Ảnh : M.H.
Doanh nghiệp Việt đã chuẩn bị như thế nào?
Ngày 19/12/2024, Quốc hội chính thức phê duyệt Nghị quyết số 172/QH15, xác lập chủ trương đầu tư cho tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Chưa đầy 4 tháng sau, ngày 23/4/2025, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết 106/NQ-CP nhằm cụ thể hóa kế hoạch triển khai nghị quyết của Quốc hội. Thêm nữa, trong một động thái thể hiện sự quyết liệt, Chính phủ yêu cầu hoàn tất công tác lựa chọn nhà thầu và ký kết hợp đồng trước ngày 31/12/2026 - thời điểm dự kiến khởi công dự án.
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được gọi tên là “dự án thế kỷ”, với nguồn vốn đặc biệt lớn, chưa từng có tại Việt Nam. Quan điểm của Đảng, Chính phủ là ưu tiên tối đa cho doanh nghiệp (DN) trong nước trên tất cả các lĩnh vực, từ tư vấn, thi công xây lắp, đến sản xuất vật liệu; công nghiệp đường sắt... Cùng với đó, Nghị quyết 68 - TW/ NQ (Nghị quyết 68) với tôn chỉ xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế cũng đã được ban hành. Cơ chế, chính sách đã có vậy thì sự sẵn sàng của DN thế nào?
Dư luận vẫn đang trông ngóng các thông tin tiếp theo sau khi Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển đường sắt tốc độ cao VinSpeed và Công ty Cổ phần Tập đoàn Trường Hải (THACO) đã có các hồ sơ, văn bản liên quan đến đề xuất đầu tư Dự án Bắc – Nam.
Trong khi đó Tập đoàn Hòa Phát và Tập đoàn SMS group (Đức) ký hợp đồng cung cấp công nghệ và dây chuyền sản xuất thép ray, thép hình với công suất 700.000 tấn một năm. Dự kiến, dây chuyền sẽ hoàn thành trong 20 tháng, cho ra sản phẩm đầu tiên vào quý I/2027. Sản phẩm đầu ra là các loại thép đặc biệt như thép ray cho đường sắt nội đô, cầu trục, đường sắt cao tốc, hoặc các loại thép hình (U, I, H, V) và thép đặc biệt. Các sản phẩm này phục vụ cho các dự án đường sắt trọng điểm quốc gia và xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
Chủ tịch Tập đoàn Hòa Phát Trần Đình Long cho biết, tập đoàn đầu tư nhà máy này nhằm tối ưu hóa chuỗi sản xuất, đồng thời thực hiện cam kết với Chính phủ về sản xuất, cung cấp sản phẩm thép phục vụ cho các dự án đường sắt tốc độ cao và các dự án trọng điểm quốc gia.
Theo ông Long, Hòa Phát tự tin sản phẩm thép ray đường sắt cao tốc của tập đoàn sẽ có chất lượng tốt, giá thành hợp lý, cạnh tranh được với nhà cung cấp nước ngoài.
Cũng theo ông Long, dự án đường sắt tốc độ cao sẽ là "cơ hội nghìn năm có một để Việt Nam phát triển ngành công nghiệp đường sắt".
Về tổng thể, ngành cơ khí đang đối mặt nhiều khó khăn và để DN phát triển, tham gia các dự án lớn như đường sắt tốc độ cao, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan cần ưu tiên tạo nguồn vốn vay dài hạn, lãi suất ổn định theo đặc thù sản xuất cho DN ngành cơ khí. Thêm nữa, cần hành lang pháp lý vững chắc để DN trong nước tham gia, như ban hành quy định thầu sao cho góp phần nâng cao tỷ lệ sử dụng vật tư, hàng hóa sản xuất trong nước, tạo thị trường cho DN cơ khí trong nước phát triển.
Trong khi đó để đón cơ hội tham gia dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, ông Nguyễn Tấn Đông - Phó Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Đèo Cả cho biết, họ có nhiều kinh nghiệm, năng lực trong thi công kết cấu phần dưới ray, gồm nền đường, hầm và cầu. Họ cũng làm việc với nhiều đối tác Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ để nghiên cứu công nghệ thi công công trình đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị.
Ngoài liên kết, tập đoàn đặt hàng đào tạo nhân lực tại các cơ sở đào tạo đường sắt trong và ngoài nước. "Khi đường sắt tốc độ cao được triển khai ở Việt Nam, chúng tôi tự tin là một nhà thầu xây lắp chủ lực tại công trình trọng điểm này", ông Đông nói.
Đại diện nhiều DN trong nước cũng cho biết, với dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, DN không đợi đến khi có dự án mới chuẩn bị. Ông Hồ Đức An – Giám đốc Kỹ thuật, Công ty CP FECON chia sẻ, chúng tôi đã tham gia vào quá trình phát triển các chuỗi cung ứng, các nhà cung cấp phục vụ trong nước và quốc tế; chúng tôi cũng đã chuẩn bị sẵn sàng các nhà máy sửa chữa thiết bị và các nhà máy cấu kiện bê tông đúc sẵn; Đồng thời đã cử cán bộ, kỹ sư đi học hỏi trực tiếp tại nước ngoài, tham gia các khóa đào tạo chuyên sâu và các khóa về quản lý dự án quy mô lớn để học hỏi kinh nghiệm từ các nước bạn trên thế giới; chúng tôi cũng đã thúc đẩy hợp tác quốc tế, trao đổi tri thức để hiểu rõ về tính chất và yêu cầu kỹ thuật của đường sắt tốc độ cao, cùng với đó là chuẩn bị cho việc chuyển giao công nghệ thi công, đặc biệt là công nghệ thi công tiên tiến, để có thể thực hiện dự án một cách nhanh nhất.
Sẵn sàng cho cuộc chơi lớn
Tham gia một dự án như đường sắt Bắc – Nam không chỉ là câu chuyện trúng thầu hay hoàn thành gói việc. Đây là cơ hội để các DN Việt trưởng thành trong hệ sinh thái công nghiệp hạ tầng.
Khi các rào cản kỹ thuật và vốn đang dần được tháo gỡ bằng chính sách hỗ trợ DN tư nhân, vấn đề để DN nội làm gì cũng là một cách thức trao cơ hội để DN nội vươn tầm.
Giới chuyên gia đánh giá, với quyết tâm phấn đấu hoàn thành vào năm 2035, với tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường và khả năng, Bộ Chính trị quyết định không phụ thuộc vào nước ngoài, bởi vay bất kỳ quốc gia nào cũng sẽ phải ràng buộc. Chính phủ sẽ có phương án huy động nguồn vốn trong nước và tùy theo khả năng cân đối, có thể phát hành trái phiếu trong nước hoặc vay nước ngoài. Trường hợp vay nước ngoài, phải đi kèm điều kiện ưu đãi, ít ràng buộc và điều kiện lớn nhất là phải chuyển giao công nghệ cho Việt Nam.
Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam đóng vai trò quan trọng trong kết nối các hành lang Đông - Tây, các cực tăng trưởng để tạo động lực lan tỏa phát triển kinh tế - xã hội. Ông Nguyễn Phạm Quang Tú - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế xây dựng (Bộ Xây dựng) cho biết: Đường sắt đô thị, đường sắt tốc độ cao là các dự án gắn với yếu tố công nghệ, lần đầu tiên được triển khai tại nước ta.
Để có cơ sở thực hiện, Bộ Xây dựng đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan thu thập dữ liệu định mức, đơn giá, suất vốn đầu tư xây dựng, dữ liệu chi phí công trình xây dựng của các dự án đường sắt tương tự trên thế giới để nghiên cứu, so sánh đối chiếu đối với các quy định của Việt Nam.
Theo đó, tính toán quy đổi làm cơ sở tham khảo, phục vụ lập tổng mức đầu tư, dự toán gói thầu các dự án đường sắt đã được Quốc hội ban hành Nghị quyết về cơ chế đặc thù.
"Bộ giao nhiệm vụ cho Viện Kinh tế xây dựng rà soát những công nghệ, đơn giá định mức của nước ngoài. Do đây là dự án lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam nên cần có sự rà soát, nghiên cứu, nếu phù hợp có thể vận dụng để xác định chi phí trong tổng mức đầu tư, dự toán gói thầu. Viện cũng vừa nhận tài liệu từ Cục Đường sắt Việt Nam, Ban Quản lý dự án đường sắt đang rà soát, sau đó có báo cáo tổng thể báo cáo lãnh đạo Bộ" - ông Tú cho hay.
Nhiều ý kiến nhận định, sự chủ động của DN Việt đã mở ra một thế trận mới. ĐBQH Nguyễn Quang Huân (đoàn Bình Dương) - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân tư nhân Việt Nam đánh giá cao tinh thần chủ động và khát vọng đóng góp của DN tư nhân vào dự án đường sắt tốc độ cao. Theo ông Huân, nên để các DN tư nhân tham gia vào làm đường sắt tốc độ cao, bởi đây là dự án cần nguồn lực rất lớn. Nếu chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước thì sẽ trở thành gánh nặng, trong khi hiện nay chúng ta có nhiều DN đủ tiềm lực kinh tế.
Điều này thể hiện mạnh mẽ tinh thần Nghị quyết 68, khu vực tư nhân cần chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước và Nhà nước cũng nên hỗ trợ một số DN vừa và lớn để họ đủ sức vươn ra toàn cầu. Nếu Việt Nam có được những DN tư nhân đủ năng lực tham gia làm đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, thì hoàn toàn có thể tiến tới mở rộng ra thị trường khu vực và quốc tế.