Phát triển KHCN trong trường đại học: Cách nào xây dựng 'hệ sinh thái'?

Việc xây dựng các trường đại học thành những hệ sinh thái khoa học, công nghệ là xu hướng tất yếu...

Giảng viên Trường Đại học Kiên Giang làm việc tại Trung tâm Quản lý Thực hành - Thí nghiệm. Ảnh: KGU

Giảng viên Trường Đại học Kiên Giang làm việc tại Trung tâm Quản lý Thực hành - Thí nghiệm. Ảnh: KGU

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, việc xây dựng các trường đại học thành những hệ sinh thái khoa học, công nghệ là xu hướng tất yếu, góp phần thúc đẩy sáng tạo, nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, các trường cần tháo gỡ các vướng mắc trong cơ chế, chính sách hỗ trợ nghiên cứu.

Nhiều rào cản

Mới đây, hơn 200 nhà khoa học, giảng viên thuộc Đại học Quốc gia TPHCM đã tham gia tọa đàm nhằm đóng góp ý kiến cho dự thảo Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo.

Bên cạnh việc ghi nhận những điểm tích cực trong dự thảo, nhiều chuyên gia cho rằng vẫn còn nhiều khoảng trống trong cơ chế hỗ trợ và ưu đãi dành cho các trường đại học thành lập doanh nghiệp khoa học, công nghệ cũng như doanh nghiệp spin-off (mô hình doanh nghiệp khởi nghiệp từ các viện nghiên cứu, trường đại học - PV), thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu và hợp tác phát triển R&D (hoạt động có hệ thống, sáng tạo để tạo ra kiến thức mới, công nghệ mới, sản phẩm mới hoặc cải tiến các sản phẩm, quy trình, dịch vụ hiện có - PV) với doanh nghiệp.

GS.TS Nguyễn Kỳ Phùng - Trưởng ban Quản lý Khu công nghệ cao TPHCM đánh giá dự thảo luật chưa quy định cụ thể phân cấp phân quyền các tổ chức khoa học, công nghệ để tạo điều kiện cho hoạt động này của các địa phương.

Quy định về cơ chế thử nghiệm sandbox (khung thể chế thí điểm, cho phép một số ít doanh nghiệp thử nghiệm các công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới trong môi trường thực tiễn nhưng có phạm vi và thời gian xác định - PV) còn rất “chung chung”. Cơ chế tự chủ tài chính vẫn chưa có quy định cụ thể, gây khó khăn cho hoạt động khoa học, công nghệ.

Cơ chế phát triển và thương mại hóa sản phẩm khoa học, công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học đã là vấn đề đặt ra từ nhiều năm nay nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Một trong những hạn chế lớn là quy trình chuyển giao công nghệ còn phức tạp, thiếu sự kết nối giữa nhà nghiên cứu và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ chưa thực sự thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khiến nhiều sản phẩm khó có thể ra thị trường.

Tại Trường Đại học Kiên Giang, dù đạt được một số kết quả tích cực, nhà trường vẫn gặp không ít khó khăn trong việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học. PGS.TS Nguyễn Trung Cang - Phó Hiệu trưởng nhà trường cho biết, theo quy định hiện hành, các kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách Nhà nước được xem là tài sản công và chịu sự quản lý của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Nghị định 70/2018/NĐ-CP quy định rằng trước khi thương mại hóa, tài sản khoa học, công nghệ phải được định giá.

Tuy nhiên, do tính đặc thù của tài sản trí tuệ, phương pháp định giá thông thường không thể áp dụng hiệu quả, gây trở ngại trong việc khai thác và chuyển giao công nghệ. Hơn nữa, quy trình xin chuyển giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu từ cơ quan chủ quản còn phức tạp, kéo dài, làm chậm tiến độ ứng dụng vào thực tiễn.

Bên cạnh đó, thủ tục phê duyệt và cấp kinh phí cho các nhiệm vụ khoa học, công nghệ còn phức tạp, ảnh hưởng lớn đến tiến độ nghiên cứu. Nhiều đề tài sau khi được phê duyệt vẫn phải chờ từ 1 - 2 năm mới được ký hợp đồng và cấp kinh phí, dẫn đến tiến độ giải ngân chậm, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện.

Ngoài ra, rủi ro trong nghiên cứu khoa học chưa được hệ thống pháp lý hiện hành chấp nhận. Theo Luật khoa học và công nghệ, các nhiệm vụ nghiên cứu bắt buộc phải có sản phẩm đầu ra cụ thể, khiến các nhà khoa học e ngại khi đề xuất những nghiên cứu mang tính đột phá do lo ngại không đạt kết quả như kỳ vọng. Điều này vô hình trung trở thành rào cản đối với sự sáng tạo và đổi mới trong nghiên cứu khoa học.

 Ảnh minh họa INT.

Ảnh minh họa INT.

Tạo hệ sinh thái trong trường đại học

PGS.TS Nguyễn Trung Cang đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ và thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu trong các trường đại học. Ông đề nghị Bộ GD&ĐT tổ chức các khóa bồi dưỡng, tập huấn về khai thác và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, giúp các trường nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ. Đồng thời, Bộ Khoa học và Công nghệ cần ban hành cơ chế đặc thù về định giá tài sản trí tuệ, đơn giản hóa quy trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra, PGS.TS Nguyễn Trung Cang cũng đề xuất cơ chế tự động giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu cho cơ quan chủ trì để tiếp tục khai thác, ứng dụng. Ông nhấn mạnh sự cần thiết của việc rà soát và điều chỉnh các quy định liên quan đến rủi ro trong nghiên cứu khoa học, cho phép những nghiên cứu mang tính đổi mới nhưng chưa đạt kết quả như kỳ vọng vẫn có thể được đánh giá theo tiêu chí phù hợp. Điều này sẽ tạo động lực cho các nhà khoa học mạnh dạn thực hiện các đề tài mang tính đột phá, góp phần thúc đẩy sự phát triển của khoa học, công nghệ trong nước.

PGS.TS Vũ Hải Quân - Giám đốc Đại học Quốc gia TPHCM đã đưa ra những đề xuất quan trọng nhằm tối ưu hóa tiềm năng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Ý kiến này được nêu tại Hội nghị phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế do Thủ tướng Chính phủ chủ trì hồi đầu tháng 2/2025. Theo đó, một trong những trọng tâm trong đề xuất là việc đa dạng hóa nguồn lực đầu tư cho các đại học quốc gia.

Ông Vũ Hải Quân nhấn mạnh sự cần thiết của cơ chế xã hội hóa đầu tư, trong đó các địa phương có tiềm năng như TPHCM cần được phép tham gia đầu tư trực tiếp vào các trường đại học. Hiện nay, do quy định của Luật Ngân sách, TPHCM dù có chương trình thu hút nhân lực chất lượng cao với mức lương hấp dẫn nhưng Đại học Quốc gia TPHCM lại không thể tận dụng được nguồn lực này. Nếu cho phép các đại học quốc gia tiếp nhận kinh phí từ địa phương, nguồn lực sẽ được tối ưu hóa và đa dạng hóa, từ đó thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Một vấn đề khác được PGS.TS Vũ Hải Quân đề cập là chính sách thuế đối với các cơ sở giáo dục đại học. Theo Nghị quyết 57-NQ/TW, các trường đại học không phải đóng thuế doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, Đại học Quốc gia TPHCM và các trường thành viên vẫn nhận được yêu cầu đóng thuế. Ông đề xuất xem xét lại quy định này. PGS.TS Vũ Hải Quân cũng bày tỏ mong muốn các đề xuất trên sẽ được tích hợp vào nghị định mới về đại học quốc gia, thể hiện đúng tinh thần của Nghị quyết 57-NQ/TW.

Báo cáo mới nhất của Ban Khoa học và Công nghệ (Đại học Quốc gia TPHCM) cho thấy, doanh thu chuyển giao công nghệ trung bình của đại học này đạt khoảng 250 tỷ đồng/năm. Tuy nhiên, lợi nhuận sau thuế chỉ chiếm khoảng 3% tổng doanh thu, một con số khiêm tốn so với tiềm năng thực tế.

Điều này phản ánh mức độ làm chủ công nghệ chủ chốt của các nghiên cứu trong các trường thành viên chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của doanh nghiệp. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến hiệu quả chuyển giao công nghệ thấp là phần lớn các sản phẩm nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ phòng thí nghiệm hoặc giai đoạn pilot (thử nghiệm).

Lê Mạnh – Quốc Ngữ

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/phat-trien-khcn-trong-truong-dai-hoc-cach-nao-xay-dung-he-sinh-thai-post723154.html