Phát triển kinh tế nông thôn vùng biên theo hướng 'thuận thiên, sinh kế xanh'
Không cần vốn đầu tư lớn, không kén đất, ít sâu bệnh và cho thu hoạch măng gần như quanh năm, cây tre Tứ Quý đang mở ra hướng đi mới cho nhiều hộ nông dân vùng biên giới. Từ những triền đồi khô cằn đến những vùng đất đã bạc màu, loại cây 'dễ tính' này vẫn xanh tốt, mang lại nguồn thu ổn định và bền vững, góp phần thay đổi diện mạo kinh tế nông thôn theo hướng 'thuận thiên, sinh kế xanh'.

Nông dân miền Tây tận dụng những thửa đất phèn để trồng tre Tứ Quý. Ảnh: Thanh Tùng
“Của để dành” giữa những vùng biên viễn
Trên những triền đất thoai thoải, từng hàng tre Tứ Quý vươn thẳng tắp, xanh rờn, rì rào trong gió như khúc nhạc đồng quê an lành. Mỗi sáng, ông Nguyễn Văn Cường, ở xã biên giới Đăk Song, tỉnh Lâm Đồng lại dạo quanh khu vườn rộng gần 1ha của mình, cẩn thận tỉa bớt những cành khô, vun gốc giữ ẩm cho tre. Từng khóm măng mập mạp, căng mọng dưới tán lá là niềm vui của người nông dân gắn bó với đất rừng nơi biên giới này.
“Tre Tứ Quý dễ trồng lắm, chi phí đầu tư ban đầu chỉ bằng một phần nhỏ so với cây công nghiệp như cà phê hay hồ tiêu, mà hiệu quả thì ổn định, lâu dài hơn. Một lần trồng, mình có thể khai thác măng cả chục năm không lo mất mùa” - ông Cường chia sẻ. Câu chuyện của ông Cường không phải là cá biệt. Ở nhiều vùng nông thôn, đặc biệt là các xã miền núi, biên giới, cây tre Tứ Quý đang trở thành hướng đi mới giúp người dân ổn định sinh kế, thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời tạo ra nguồn thu bền vững mà không tốn nhiều công sức.
Theo các nhà nông học, tre Tứ Quý có nguồn gốc từ Đài Loan, được du nhập vào Việt Nam khoảng hơn 10 năm nay và nhanh chóng thích nghi với nhiều loại đất, từ đất đỏ bazan, đất sét đến đất đồi khô cằn. Điểm đặc biệt khiến giống tre này được ưa chuộng là khả năng cho thu hoạch măng gần như quanh năm, kéo dài đến 10 tháng, chỉ nghỉ khoảng 2 tháng để thay lá và phục hồi dinh dưỡng. Từ khi trồng đến lúc bắt đầu cho măng chỉ mất khoảng 8 tháng. Sau đó, mỗi bụi tre có thể cho trung bình 10 cây măng mỗi tháng, trọng lượng mỗi cây đạt từ 1,5kg trở lên. Với giá bán dao động 20.000-45.000 đồng/kg tùy thời điểm, mỗi hecta tre Tứ Quý có thể mang lại nguồn thu từ 200-400 triệu đồng/năm, tùy theo mức độ chăm sóc và năng suất. “Đây là giống cây rất phù hợp cho hộ nông dân có ít đất, hoặc muốn chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Không chỉ cho măng ăn tươi, tre Tứ Quý còn có thể cung cấp nguyên liệu cho các cơ sở chế biến măng sấy, măng muối, tạo thêm giá trị gia tăng” - ông Nguyễn Văn Cường cho biết.
Không những vậy, tre Tứ Quý còn là loại cây sinh trưởng mạnh, ít sâu bệnh, không cần thuốc bảo vệ thực vật. Chính yếu tố này giúp sản phẩm măng được đánh giá cao về độ an toàn và khả năng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc. “Cây tre này như “của để dành”. Nó không cần chăm nhiều, nhưng cứ đều đều mang lại thu nhập mỗi tháng. Bà con chúng tôi ai cũng yên tâm vì đầu ra khá ổn định, thương lái đến tận vườn thu mua” - ông Trần Quỳnh, một hộ dân trồng tre Tứ Quý ở ấp Cao Su, xã Long Thuận, tỉnh Tây Ninh cho biết.
Hiệu quả kinh tế - xã hội bền vững
Nếu như trước đây, nhiều vùng trung du, miền núi, biên giới chủ yếu trồng sắn, ngô hoặc các loại cây công nghiệp dài ngày, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, thì nay, trồng tre Tứ Quý được xem như một “lối ra” an toàn hơn. Mô hình này không chỉ giúp người dân có việc làm ổn định quanh năm, mà còn góp phần phủ xanh đất trống, chống xói mòn và bảo vệ nguồn nước.
Trồng tre Tứ Quý không đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, chỉ cần tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản. Đất trồng cần được làm tơi xốp, giữ ẩm tốt, thoát nước nhanh. Khi trồng, nên chọn cây giống khỏe, cao từ 50-70cm, có ít nhất 3-4 mầm. Sau khi xuống giống, cần giữ ẩm thường xuyên, đặc biệt trong giai đoạn đầu, giúp rễ bám chắc và phát triển. Trong quá trình chăm sóc, người trồng cần phát dọn cành vô hiệu để vườn tre thông thoáng, giúp ánh sáng lọt đều xuống gốc, kích thích măng mọc mạnh. Mỗi năm, nên đốn bỏ cây tre già, chỉ giữ lại 2-3 cây khỏe trong mỗi bụi để tre non mọc nhanh, măng to và múp.
Chi phí đầu tư ban đầu cho 1ha tre Tứ Quý chỉ khoảng 40-50 triệu đồng, bao gồm tiền giống và công trồng. Sau năm đầu tiên, người trồng chỉ cần bón phân hữu cơ, tỉa gốc, giữ ẩm... - những công việc khá nhẹ nhàng. So với việc phải chăm sóc, bón phân, phòng bệnh liên tục như cà phê hay hồ tiêu, tre Tứ Quý giúp giảm đáng kể chi phí nhân công và rủi ro mất mùa. Từ năm thứ hai trở đi, người dân bắt đầu thu hoạch đều đặn. Mỗi năm, một bụi tre có thể cho thu nhập vài triệu đồng, tính ra, một hecta trồng dày khoảng 1.000 bụi mang lại nguồn lợi ổn định. Với đặc tính cho măng quanh năm, người trồng có thể “gối vụ”, bán ra thị trường khi giá cao, không lo bị dồn ứ vào mùa thu hoạch chính như các loại nông sản khác.

Cây tre Tứ Quý giúp nhiều hộ nông dân biên giới thoát nghèo. Ảnh: Thanh Tùng
Ông Võ Văn Nghiêm, một nông dân ở xã Cầu Khởi, tỉnh Tây Ninh chia sẻ kinh nghiệm: “Tre Tứ Quý không cần phân hóa học, tôi chủ yếu dùng phân chuồng hoai, tro trấu và nước tưới giữ ẩm. Mỗi khi thấy đất khô, chỉ cần vun gốc, che rơm là măng mọc nhanh lắm. Một năm, nhà tôi thu hơn 5 tấn măng, bán ra cũng được hơn trăm triệu đồng”. Đặc biệt, do cây tre phát triển mạnh về rễ, nó có tác dụng chống xói mòn đất, bảo vệ đồi dốc, tạo bóng mát và góp phần điều hòa vi khí hậu. Nhiều địa phương còn khuyến khích trồng tre Tứ Quý xen kẽ với các loại cây ăn quả hoặc cây lấy gỗ, vừa tăng thu nhập, vừa tận dụng được quỹ đất. Ngoài ra, tre Tứ Quý còn mở ra cơ hội phát triển kinh tế tập thể. Nhiều địa phương đã thành lập các tổ hợp tác, hợp tác xã chuyên thu mua, sơ chế và tiêu thụ măng, tạo chuỗi liên kết khép kín. Một số cơ sở còn đầu tư máy sấy, đóng gói măng khô, đưa sản phẩm vào siêu thị và sàn thương mại điện tử, tăng giá trị lên gấp đôi so với bán măng tươi.
“Cây kinh tế xanh” của tương lai
Để phát huy tối đa hiệu quả từ cây tre Tứ Quý, nhiều tỉnh đã đưa loại cây này vào danh mục cây trồng chủ lực trong chương trình chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp. Ngành nông nghiệp các địa phương đang xây dựng mô hình “Vườn tre mẫu”, kết hợp tham quan, học tập và chuyển giao kỹ thuật trồng, chăm sóc cho nông dân. Một số doanh nghiệp chế biến măng quy mô nhỏ cũng đã liên kết với các hộ dân để bao tiêu sản phẩm, đảm bảo đầu ra ổn định. Nhiều vùng biên giới như Lâm Đồng, Gia Lai, Sơn La, Thanh Hóa... đã hình thành những vùng chuyên canh măng tre Tứ Quý, bước đầu cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu sang Trung Quốc, Hàn Quốc. Theo đánh giá của Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), tre Tứ Quý không chỉ giúp đa dạng hóa cơ cấu cây trồng, mà còn là hướng đi phù hợp trong chiến lược phát triển nông nghiệp xanh, bền vững. Loài cây này có khả năng tái sinh mạnh, hấp thụ khí CO₂ cao, góp phần quan trọng trong việc giảm phát thải khí nhà kính, một yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu.
Từ một loài cây vốn gắn bó với văn hóa dân tộc, tre nay đang bước ra khỏi phạm vi làng quê để trở thành “cây kinh tế xanh” của thời đại mới. Những bụi tre Tứ Quý không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mà còn góp phần bảo vệ môi trường, tạo sinh kế bền vững cho người dân vùng biên. Ở nhiều nơi, mô hình trồng tre kết hợp du lịch sinh thái, trải nghiệm nông nghiệp đang hình thành. Du khách có thể tham quan, tự tay thu hoạch măng, thưởng thức các món ăn dân dã từ măng tre tươi, tạo nên giá trị văn hóa mới cho sản phẩm nông nghiệp. Nhìn những bụi tre xanh ngát phủ kín triền đồi, ông Nguyễn Văn Cường mỉm cười mãn nguyện: “Ngày xưa nghèo, trồng cà phê lỗ mãi. Giờ trồng tre, cuộc sống đã khác. Tre cho măng, cho bóng mát, cho cả niềm tin rằng nếu mình biết chọn hướng đi đúng, thì đất nào cũng hóa lành”.
Tre Tứ Quý đang mở ra một chương mới cho nông nghiệp vùng biên, đó là phát triển kinh tế từ sức mạnh của thiên nhiên, bền vững và thuận theo quy luật đất trời.













