Phát triển kinh tế tư nhân: Gắn kết mục tiêu tăng trưởng và bảo vệ môi trường
Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng với kinh tế toàn cầu, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng được khẳng định. Cùng với đó, yêu cầu cấp thiết về tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu cũng đặt ra nhiều thách thức và cơ hội mới.
Phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường
Nhận thức rõ tầm quan trọng này, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã đề ra nhiều định hướng chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng và sức cạnh tranh của khu vực tư nhân, đồng thời gắn kết chặt chẽ với mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.
Chia sẻ về những định hướng lớn của Nghị quyết, ông Dương Duy Hưng - Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương cho rằng, điều quan trọng đầu tiên là doanh nghiệp tư nhân và cơ quan quản lý phải phối hợp để cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết vào thực tiễn. Theo ông, các doanh nghiệp cần phát huy vai trò đại diện thông qua hiệp hội hoặc trực tiếp lên tiếng, tích cực tham gia xây dựng chính sách. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp chưa chú trọng nghiên cứu, thực thi pháp luật và cam kết hội nhập. Vì vậy, cần nâng cao tính chủ động, trách nhiệm và thực hiện tốt chính công việc của mình kinh doanh, đầu tư, sản xuất bền vững, đi những bước chắc chắn, lâu dài, đóng góp thiết thực cho sự phát triển chung.

Thúc đẩy kinh tế gắn với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Ảnh: T.L
TS. Lại Văn Mạnh - Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh rằng Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 là kế hoạch tổng thể nhằm thúc đẩy kinh tế gắn với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Mục tiêu của chiến lược là giảm cường độ phát thải khí nhà kính, xanh hóa các ngành kinh tế, định hình lối sống bền vững, hướng tới nền kinh tế các-bon thấp và trung hòa carbon vào năm 2050.
Trong khuôn khổ Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP), Việt Nam đặt mục tiêu huy động 15,5 tỷ USD từ cả nguồn công và tư. Đây là cơ hội lớn để khu vực tư nhân đầu tư vào năng lượng tái tạo, hạ tầng điện, công nghệ xanh, kinh tế tuần hoàn và các giải pháp tiết kiệm năng lượng; đồng thời tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, bảo hiểm xanh và sản phẩm tài chính xanh từ các tổ chức quốc tế.
Một trọng tâm là xanh hóa sản xuất và tiêu dùng. Trong sản xuất, doanh nghiệp cần ứng dụng công nghệ sạch, phát triển năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên, phát triển tài chính xanh và hạ tầng xanh. Ở phía tiêu dùng, cả khu vực công và tư được khuyến khích ưu tiên sản phẩm thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng và giảm chất thải, qua đó hình thành lối sống bền vững.
Theo TS. Mạnh, nguồn lực đầu tư là yếu tố then chốt. Cả khu vực công và tư đều cần tham gia với nhiều kênh vốn: ngân sách nhà nước, vốn vay ưu đãi, cổ phần, trái phiếu và hỗ trợ quốc tế. Đầu tư xanh sẽ tập trung vào các dự án bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và mang lại lợi ích khí hậu rõ rệt.
Về lộ trình đạt Net Zero vào năm 2050, Việt Nam triển khai sáu định hướng: chuyển đổi năng lượng, phát triển kinh tế tuần hoàn, hình thành thị trường carbon, thúc đẩy tài chính xanh, đổi mới công nghệ và hoàn thiện chính sách hỗ trợ. Đây là khung hành động toàn diện để giảm phát thải và nâng cao khả năng thích ứng.
Cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân
TS. Mạnh cũng phân tích mô hình kinh tế tuần hoàn với nguyên tắc 3R và 9R nâng cao, tập trung vào giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, kéo dài vòng đời sản phẩm và khai thác hiệu quả tài nguyên. Các mô hình kinh doanh tuần hoàn bao gồm cung cấp tuần hoàn, phục hồi tài nguyên, kéo dài tuổi thọ sản phẩm, dịch vụ chia sẻ và dịch vụ thay thế sản phẩm.
Ông cho biết thêm, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, hỗ trợ công nghệ và hạ tầng để khuyến khích doanh nghiệp phát triển xanh. Các ngành ưu tiên gồm nông - lâm - thủy sản, năng lượng tái tạo, chế biến - chế tạo, xây dựng, giao thông và quản lý chất thải. Đây là cơ sở để khu vực tư nhân tận dụng cơ hội, nâng cao năng lực cạnh tranh và đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững.

Việt Nam đã có nhiều tín hiệu tích cực trong chuyển dịch năng lượng. Ảnh: T.L
Đánh giá vai trò của khu vực tư nhân, PGS.TS Bùi Thị An - Đại biểu Quốc hội khóa XIII, Viện trưởng Viện Tài nguyên, Môi trường và Phát triển cộng đồng cho rằng Nghị quyết 68-NQ/TW xác định phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; đồng thời đặt yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và bảo vệ môi trường như những trụ cột của mô hình phát triển mới.
Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, huy động khu vực tư nhân tham gia chuyển dịch xanh có ý nghĩa then chốt. Hiện khu vực này đóng góp hơn 50% GDP và tạo nhiều việc làm nhất cho nền kinh tế. Nghị quyết số 68-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2030, kinh tế tư nhân đóng góp 55 - 58% GDP, tăng trưởng bình quân 10 - 12%/năm, và hình thành đội ngũ doanh nghiệp dân tộc đủ năng lực vươn ra khu vực và toàn cầu.
Thực tế, Việt Nam đã có nhiều tín hiệu tích cực trong chuyển dịch năng lượng. Chỉ trong vài năm, nước ta đã vươn lên nhóm dẫn đầu Đông Nam Á về điện mặt trời và điện gió. Theo REN21 và các nghiên cứu độc lập, đến năm 2023, công suất điện mặt trời lũy kế đạt khoảng 18,6 GW; tổng công suất điện gió và mặt trời vượt 21 GW, trong đó khu vực tư nhân giữ vai trò dẫn dắt. Việc gia tăng tỷ trọng điện sạch (thủy điện, gió, mặt trời, sinh khối) là tiền đề để doanh nghiệp giảm cường độ carbon trong sản xuất, đáp ứng yêu cầu “biên giới carbon” tại các thị trường xuất khẩu chủ lực.
Năm 2025, Việt Nam khởi động giai đoạn thí điểm hệ thống giao dịch phát thải (ETS) theo lộ trình đến 2028 - 2029, trước hết tập trung vào các ngành phát thải lớn như điện, thép, xi măng. Giai đoạn đầu, phần lớn hạn ngạch phát thải được phân bổ miễn phí; tuy nhiên cơ chế này sẽ là khuôn khổ pháp lý để doanh nghiệp tính đúng, tính đủ chi phí carbon, qua đó thúc đẩy đầu tư công nghệ sạch./.
Thách thức và yêu cầu đổi mới
Bên cạnh thuận lợi, PGS.TS Bùi Thị An cũng chỉ ra nhiều rào cản trong quá trình chuyển dịch xanh: chi phí đầu tư ban đầu cho công nghệ sạch cao; tiếp cận tín dụng xanh còn hạn chế; năng lực quản trị ESG và báo cáo phát thải của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn yếu; khung pháp lý thiếu đồng bộ, thiếu dữ liệu và hạ tầng hỗ trợ kinh tế tuần hoàn như phân loại rác tại nguồn, logistics ngược, tiêu chuẩn tái chế./.