Phụ nữ Khmer - Hạt nhân sáng tạo của các hoạt động du lịch bản địa
Phụ nữ Việt Nam có cuộc trò chuyện với Thạc sĩ Phan Thị Ánh Hồng - một trong những tác giả của đề tài khoa học 'Vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển du lịch nông thôn: Góc nhìn từ cộng đồng Khmer tại các tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh'. Cuộc trao đổi xoay quanh những kết quả nghiên cứu mới nhất về vai trò của người phụ nữ Khmer trong gìn giữ văn hóa truyền thống và phát triển du lịch cộng đồng.

PV: Thưa Thạc sĩ Ánh Hồng, điều gì đã thôi thúc chị chọn đề tài nghiên cứu về phụ nữ Khmer và phát triển du lịch nông thôn tại hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh một đề tài còn khá mới và ít được đề cập trước đây?
ThS. Phan Thị Ánh Hồng: Khi tiếp cận với các nghiên cứu về phát triển du lịch nông thôn tại Việt Nam, tôi nhận thấy có khá nhiều công trình đề cập đến phụ nữ dân tộc thiểu số nói chung, nhưng hầu hết lại thiếu vắng góc nhìn chuyên sâu về cộng đồng Khmer - một trong những dân tộc thiểu số có dân số đông bậc nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Trong khi đó, tại Trà Vinh và Sóc Trăng, người Khmer chiếm tới khoảng 30-32% dân số, đặc biệt có những huyện như Trà Cú (Trà Vinh) tỷ lệ người Khmer lên đến 65%. Đây là cộng đồng sở hữu nền văn hóa đặc sắc với những lễ hội, nghệ thuật múa, nhạc ngũ âm, nghề thủ công và ẩm thực rất riêng.

ThS. Phan Thị Ánh Hồng trong một hội thảo
Từ thực tế tiếp xúc và các chuyến công tác điền dã, chúng tôi nhận thấy chính phụ nữ Khmer đang đóng vai trò then chốt trong việc gìn giữ, truyền tải và lan tỏa các giá trị văn hóa ấy, đồng thời tham gia tích cực vào các hoạt động du lịch nông thôn, đặc biệt ở lĩnh vực homestay, chế biến ẩm thực, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, tổ chức sự kiện lễ hội văn hóa dân gian phục vụ du khách.
Tuy nhiên, tiếng nói và vị thế của họ vẫn còn khiêm tốn trong hoạch định chính sách và tổ chức các hoạt động phát triển du lịch. Đó chính là lý do thôi thúc chúng tôi thực hiện nghiên cứu này.
PV: Kết quả khảo sát và phỏng vấn thực địa của nhóm chị cho thấy vai trò cụ thể của phụ nữ Khmer trong phát triển du lịch nông thôn tại Sóc Trăng và Trà Vinh như thế nào?
ThS. Phan Thị Ánh Hồng: Trong nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành 12 phỏng vấn sâu với hai nhóm chính: cán bộ quản lý địa phương và phụ nữ Khmer đang trực tiếp tham gia vào hoạt động du lịch nông thôn. Qua đó, kết quả rất rõ nét: phụ nữ Khmer không chỉ là người duy trì mà còn là hạt nhân sáng tạo của các hoạt động du lịch bản địa.
Cụ thể, họ tham gia trực tiếp vào việc bảo tồn, tổ chức các nghi lễ tôn giáo, trình diễn nghệ thuật dân gian như múa Khmer, nhạc ngũ âm. Nhiều chị em đứng ra tổ chức các lớp nấu ăn truyền thống, phục vụ khách du lịch trải nghiệm các món đặc sản dân gian.
Đặc biệt ở lĩnh vực du lịch lưu trú tại nhà dân (homestay), phụ nữ Khmer là người chủ động xây dựng mô hình, tiếp đón khách, giới thiệu văn hóa, hướng dẫn du khách tham quan các di tích chùa chiền, tham gia vào lễ hội truyền thống.
Số liệu mà nhóm chúng tôi thu thập được cho thấy, tại Trà Vinh, số làng nghề truyền thống do phụ nữ Khmer duy trì đã tăng từ 12 làng năm 2018 lên 18 làng năm 2022. Tại Sóc Trăng, phụ nữ Khmer đóng vai trò chủ đạo trong 15 làng nghề truyền thống.
Ngoài ra, họ cũng điều hành 65 cơ sở homestay và nhà vườn. Tại Sóc Trăng, các cơ sở lưu trú do phụ nữ Khmer quản lý đã đón tiếp khoảng 120.000 lượt khách/năm, chiếm 25% tổng khách lưu trú của tỉnh.
Phụ nữ Khmer vừa là người trực tiếp tạo ra các sản phẩm du lịch, vừa giữ vai trò kết nối cộng đồng với du khách và tổ chức du lịch, đồng thời góp phần bảo tồn di sản văn hóa. Họ không đơn thuần là người lao động mà thực sự là "chủ thể văn hóa" trong quá trình phát triển du lịch nông thôn tại địa phương.

Trang phục phụ nữ Khmer Nam bộ
PV: Bên cạnh những đóng góp tích cực ấy, theo Thạc sĩ, phụ nữ Khmer đang đối mặt với những khó khăn, thách thức gì trong quá trình tham gia phát triển du lịch nông thôn?
ThS. Phan Thị Ánh Hồng: Qua nghiên cứu thực địa, chúng tôi nhận thấy phụ nữ Khmer đang đứng trước những rào cản rất lớn, có thể chia thành ba nhóm chính:
Đầu tiên là khó khăn về vốn và nguồn lực. Mặc dù có chính sách tín dụng ưu đãi, nhưng tiếp cận vốn với họ vẫn rất hạn chế. Nguyên nhân chính đến từ việc thiếu tài sản thế chấp, không có lịch sử tín dụng rõ ràng, thiếu kiến thức lập kế hoạch tài chính, và chưa quen với các thủ tục vay vốn ngân hàng. Nhiều phụ nữ chia sẻ rằng dù có ý tưởng kinh doanh nhưng vẫn "ngại vay", sợ không trả được vì lượng khách du lịch chưa ổn định.
Rào cản thứ hai là hạn chế về kỹ năng quản lý, marketing và ứng dụng công nghệ. Trong khảo sát của chúng tôi, có đến 60% phụ nữ Khmer thiếu kỹ năng quản lý và kinh doanh. Phần lớn các homestay, nhà vườn hoạt động tự phát, chưa biết sử dụng nền tảng đặt phòng trực tuyến, không có website hay fanpage bài bản.
Họ chủ yếu quảng bá bằng truyền miệng hoặc qua Facebook, Zalo cá nhân. Điều này làm hạn chế khả năng tiếp cận khách hàng và tính cạnh tranh.
Vấn đề thứ ba là rào cản xã hội và định kiến giới. Phụ nữ Khmer vẫn bị ràng buộc bởi các chuẩn mực truyền thống trong cộng đồng. Tỷ lệ nữ tham gia các vị trí lãnh đạo cấp xã chỉ đạt 15,5%.
Áp lực "gánh nặng kép" giữa chăm sóc gia đình và làm kinh tế khiến nhiều chị em khó toàn tâm toàn ý cho hoạt động du lịch. Ngoài ra, tỷ lệ biết chữ của phụ nữ Khmer vẫn thấp hơn nam giới (76,5% so với 86,8%), hạn chế việc tiếp cận thông tin, học hỏi kinh nghiệm và tham gia các lớp đào tạo.
PV: Từ những kết quả nghiên cứu, chị có thể chia sẻ những giải pháp nào thiết thực nhất để tăng cường vai trò và vị thế của phụ nữ Khmer trong phát triển du lịch nông thôn hiện nay?
ThS. Phan Thị Ánh Hồng: Từ kết quả nghiên cứu thực địa và phân tích các rào cản, chúng tôi đề xuất ba nhóm giải pháp trọng tâm, được thiết kế để giải quyết từng vấn đề cụ thể:
Thứ nhất là tăng khả năng tiếp cận vốn. Cần thành lập các quỹ hỗ trợ khởi nghiệp du lịch cộng đồng dành riêng cho phụ nữ Khmer, với cơ chế vay không thế chấp, lãi suất thấp, thủ tục giản lược. Hội Phụ nữ và chính quyền địa phương cần khuyến khích chị em tham gia các tổ hợp tác, hợp tác xã du lịch để chia sẻ vốn, kinh nghiệm và tạo sức mạnh cộng đồng.
Thứ hai là nâng cao kỹ năng quản lý và công nghệ số. Các Sở Du lịch cần phối hợp với Hội Phụ nữ tổ chức các khóa đào tạo về quản lý doanh nghiệp, lập kế hoạch tài chính, tiếp thị du lịch, xây dựng thương hiệu cá nhân, quảng bá sản phẩm trên nền tảng số.
Cần đặc biệt quan tâm đào tạo về sử dụng mạng xã hội, nền tảng đặt phòng trực tuyến, kỹ năng chụp ảnh, dựng video quảng bá sản phẩm du lịch địa phương.
Thứ ba là giảm rào cản định kiến giới. Chính quyền và Hội Phụ nữ địa phương cần tăng cường truyền thông về bình đẳng giới, tổ chức các câu lạc bộ phụ nữ làm du lịch, khuyến khích nữ giới tham gia vị trí lãnh đạo trong tổ chức và quản lý hoạt động du lịch cộng đồng.
Đồng thời, tạo điều kiện để phụ nữ Khmer tham gia các chương trình giao lưu, học hỏi mô hình du lịch cộng đồng thành công trong nước và quốc tế.
Nếu làm tốt những điều đó, phụ nữ Khmer sẽ thực sự trở thành lực lượng tiên phong, giữ hồn văn hóa và góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
PV: Xin trân trọng cảm ơn những chia sẻ của bà!