Quản lý chất thải rắn sinh hoạt: Nhận diện thực trạng để hoạch định giải pháp dài hạn

Tại Tọa đàm 'Các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt' do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức, các đại biểu cho rằng, việc nhận diện đúng thực trạng, chỉ rõ những bất cập chính là chìa khóa quan trọng để xây dựng giải pháp tổng thể, hướng tới mục tiêu quản lý chất thải rắn sinh hoạt hiệu quả, bền vững – góp phần hiện thực hóa cam kết phát triển kinh tế tuần hoàn và bảo vệ môi trường quốc gia.

Trong bối cảnh Quốc hội đang tiến hành giám sát chuyên đề việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Nguyễn Thị Mai Phương - thành viên Đoàn giám sát nhận định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã cơ bản tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt.

Các địa phương cũng đang nỗ lực xây dựng, ban hành văn bản để hiện thực hóa chính sách, chỉ đạo của Trung ương về quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Hiện giờ, theo thống kê đã có 56/63 tỉnh, thành phố trước khi sáp nhập ban hành quy định về quản lý chất thải. Trong đó 34/63 tỉnh, thành phố có ban hành quy định về phân loại chất thải rắn sinh hoạt. Điều này cho thấy các địa phương rất quan tâm đến việc thực thi Luật Bảo vệ môi trường.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Nguyễn Thị Mai Phương phát biểu tại tại tọa đàm “Các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt”. Ảnh: Duy Thông

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Nguyễn Thị Mai Phương phát biểu tại tại tọa đàm “Các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt”. Ảnh: Duy Thông

Tuy nhiên, đại biểu Nguyễn Thị Mai Phương cũng chỉ ra thực tế tại các địa phương vẫn đang lúng túng trong việc áp dụng đơn giá, định mức kinh tế kỹ thuật về rác thải xử lý sau sinh hoạt hay việc đổi mới sắp xếp chính quyền địa phương 2 cấp cũng đang trở thành rào cản trong việc bổ sung, sửa đổi các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường.

“Kết quả hướng dẫn văn bản quy định chi tiết về bảo vệ môi trường là đáng khích lệ, thể hiện nỗ lực cao của Chính phủ, các bộ ngành và các địa phương tuy nhiên còn nhiều vấn đề phải xử lý, sửa đổi bổ sung để đáp ứng tình hình mới hiện nay. Đồng thời, cần sự phối hợp mạnh mẽ giữa các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức, vừa tuyên truyền vận động, vừa giám sát thực thi các quy định về bảo vệ môi trường”, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp nhấn mạnh.

PGS.TS Bùi Thị An, đại biểu Quốc hội Khóa XIII, Viện trưởng Viện Tài nguyên, môi trường và Phát triển cộng đồng phát biểu tại Tọa đàm. Ảnh: Duy Thông

PGS.TS Bùi Thị An, đại biểu Quốc hội Khóa XIII, Viện trưởng Viện Tài nguyên, môi trường và Phát triển cộng đồng phát biểu tại Tọa đàm. Ảnh: Duy Thông

Đồng tình với quan điểm của đại biểu Nguyễn Thị Mai Phương, PGS.TS. Bùi Thị An, ĐBQH Khóa XIII, Nguyên Viện trưởng Viện Tài nguyên, Môi trường và Phát triển cộng đồng cho rằng kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực đã tạo nên những bước tiến rõ rệt về khung pháp lý, tổ chức thực hiện và nâng cao nhận thức.

Tuy nhiên bên cạnh những thành công bước đầu, PGS.TS. Bùi Thị An cũng cho rằng vấn đề lớn nhất hiện nay là sự thiếu đồng bộ trong quản lý, trong khung pháp lý, trong tổ chức thực hiện và phối hợp liên ngành.

“Tại sao đến nay, tuy số lượng rác thu gom có nhiều hơn, tốt hơn so với trước đây, năng lực quản lý cũng tốt hơn, môi trường trong sạch hơn nhưng vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại?” Tiến sĩ An đặt câu hỏi.

Trước hết, về việc phân loại rác tại nguồn, mặc dù đã được quy định trong luật nhưng đến nay vẫn chưa thực thi được ở nhiều nơi. Điều này đồng nghĩa giữa lý thuyết và thực tế đang có khoảng cách, cho thấy sự thiếu đồng bộ.

Dù đã có chính sách, nhưng việc triển khai phân loại rác tại nguồn mới chỉ dừng lại ở một vài mô hình điểm, chứ chưa được triển khai hiệu quả kể cả ở các đô thị lớn. Hình minh họa

Dù đã có chính sách, nhưng việc triển khai phân loại rác tại nguồn mới chỉ dừng lại ở một vài mô hình điểm, chứ chưa được triển khai hiệu quả kể cả ở các đô thị lớn. Hình minh họa

Lấy ví dụ tại nơi mình sinh sống, PGS.TS. Bùi Thị An đánh giá các đồng chí lãnh đạo thành phố Hà Nội đã thể hiện quyết tâm chính trị rất cao và đưa ra nhiều giải pháp tháo gỡ những điểm “kẹt” về pháp lý.

“Chúng ta đã đề xuất và triển khai việc trả phí theo khối lượng rác, hay tăng phí thu gom, quy hoạch các điểm tập kết rác. Tuy nhiên nếu không thực hiện quy hoạch, phân loại tại nguồn sẽ dẫn đến kinh tế tuần hoàn không hiệu quả, chưa có thị trường cho sản phẩm kinh tế tuần hoàn,… tạo nên một vòng luẩn quẩn”, nguyên Viện trưởng Viện Tài nguyên, Môi trường và Phát triển cộng đồng nhận định.

GS.TS Nguyễn Hữu Dũng, Viện trưởng Viện Môi trường đô thị và công nghiệp Việt Nam phát biểu tại tọa đàm “Các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt”. Ảnh: Duy Thông

GS.TS Nguyễn Hữu Dũng, Viện trưởng Viện Môi trường đô thị và công nghiệp Việt Nam phát biểu tại tọa đàm “Các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt”. Ảnh: Duy Thông

Là đơn vị theo dõi về quản lý chất thải rắn nhiều năm nay, GS.TS. Nguyễn Hữu Dũng, Viện trưởng Viện Môi trường đô thị và công nghiệp Việt Nam nhận định tỷ lệ chôn lấp hiện nay tại các địa phương là 62%, so với chiến lược quản lý chất thải rắn do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đến năm 2025, con số này là chưa đạt. Đây là một vấn đề rất khó khăn bởi xử lý chất thải rắn sinh hoạt phụ thuộc rất nhiều vào tình hình các địa phương và khả năng chi ngân sách cho công tác xử lý chất thải rắn.

“Đối với bãi chôn lấp không hợp vệ sinh thì việc đầu tư gần như bằng không vì nó ở dạng tự nhiên, nhưng để đầu tư một bãi chôn lấp hợp vệ sinh đòi hỏi chi phí đầu tư và vận hành lớn hơn nhiều”, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng thông tin.

Đối với hình thức đốt rác và công nghệ ủ men để chế tạo phân vi sinh thì đòi hỏi phải có vốn đầu tư. Vì vậy, theo tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng cần phải có thêm những chính sách trong việc quản lý các dự án đầu tư về công nghệ xử lý rác thải.

Bên cạnh đó, tình hình ô nhiễm tại các bãi chôn lấp cũng là một vấn đề rất nan giải. Ngay tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố lớn các bãi chôn lấp đang gây ô nhiễm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân.

Bãi rác Nam Sơn từng khiến nhiều người dân bức xúc vì làm ảnh hưởng đến sống. Ảnh: VGP

Bãi rác Nam Sơn từng khiến nhiều người dân bức xúc vì làm ảnh hưởng đến sống. Ảnh: VGP

Nhận định về thực trạng công tác xử lý phân loại rác tại nguồn hiện nay, ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch Hội Nước và Môi trường Việt Nam thông tin cho đến thời điểm ngày 30 tháng 6, mỗi ngày cả nước phát sinh khoảng 69,4 nghìn tấn rác thải , trong đó tỷ lệ xử lý đã đạt được 91%. Năm 2024 tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị đạt 97,26%, tỷ lệ chôn lấp đã giảm xuống 64% và chất thải nguy hại được xử lý đạt 98,6%.

“Theo Luật Bảo vệ môi trường, từ ngày 1 tháng 1 năm 2025 người dân có trách nhiệm phân loại rác thải tại nguồn. Tuy nhiên đến nay việc này vẫn chưa được triển khai hiệu quả. Vậy thì chúng ta phải phân tích từ những vướng mắc thực tiễn”, Phó Chủ tịch Hội Nước và Môi trường Việt Nam chia sẻ.

Ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch Hội Nước và Môi trường Việt Nam phát biểu tại Tọa đàm. Ảnh: Duy Thông

Ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch Hội Nước và Môi trường Việt Nam phát biểu tại Tọa đàm. Ảnh: Duy Thông

Trước hết, trong nhiều năm, rác vẫn được coi là thứ bỏ đi chứ chưa được nhìn nhận như một loại tài nguyên có thể tái chế, tái sử dụng. Do đó, hành vi phân loại chưa trở thành nếp sinh hoạt tự giác. Mặc dù công tác tuyên truyền đã được triển khai, nhưng còn thiếu tính đồng bộ, chưa có sự lặp lại thường xuyên và chưa lan tỏa đủ rộng trong cộng đồng.

Thứ hai, về hạ tầng và dịch vụ thu gom có những hộ gia đình sẵn sàng phân loại nhưng khi rác được thu gom lại bị trộn chung, khiến nỗ lực của người dân bị phủ nhận. Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả thực tế, mà còn gây tâm lý hoài nghi, thậm chí mất niềm tin vào chính sách.

Thứ ba, về cơ chế khuyến khích và chế tài. Hiện nay, nhiều địa phương chưa áp dụng các mô hình thu phí theo khối lượng hoặc theo loại rác. Chính vì thế, người dân chưa thấy được lợi ích trực tiếp, cả về tài chính lẫn tinh thần, khi tham gia phân loại. Bên cạnh đó, chế tài xử phạt với các trường hợp không tuân thủ cũng chưa được quy định và thực thi rõ ràng.

“Có thể thấy rằng mặc dù hệ thống chính sách pháp luật đã được ban hành khá đầy đủ, nhưng quá trình triển khai tại cơ sở vẫn còn nhiều bất cập, từ hạ tầng kỹ thuật, ứng dụng công nghệ cho đến thay đổi hành vi xã hội”, ông Toàn chia sẻ.

Toàn cảnh Tọa đàm "Các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt". Ảnh: Duy Thông

Toàn cảnh Tọa đàm "Các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt". Ảnh: Duy Thông

Có thể thấy, dù hệ thống pháp luật và chính sách về bảo vệ môi trường đã được hoàn thiện đáng kể, nhiều địa phương chủ động ban hành quy định triển khai, song việc thực thi vẫn bộc lộ không ít bất cập, từ thiếu đồng bộ trong phân loại rác tại nguồn, hạ tầng kỹ thuật còn hạn chế, đến cơ chế tài chính và phối hợp liên ngành chưa hiệu quả.

Những phân tích “đúng và trúng” của các đại biểu tại tọa đàm cho thấy, chỉ khi nhìn nhận rõ nguyên nhân của những điểm nghẽn mới có thể xây dựng được giải pháp tổng thể, bền vững trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Đây không chỉ là yêu cầu cấp bách mà còn là bước đi quan trọng hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế tuần hoàn và bảo vệ môi trường lâu dài.

Nguyễn Chi

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/quan-ly-chat-thai-ran-sinh-hoat-nhan-dien-thuc-trang-de-hoach-dinh-giai-phap-dai-han-10390584.html