Quản lý thuế trên nền tảng số

Phát triển thương mại điện tử (TMĐT) là một xu thế tất yếu trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Việt Nam được xác định là quốc gia có tăng trưởng về TMĐT nhanh nhất khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, khoảng trống chính sách pháp luật thời gian qua khiến một bộ phận người kinh doanh truyền thống chuyển sang hình thức TMĐT nhằm né tránh sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng, trong đó có ngành thuế. Điều này đặt ra yêu cầu mới về quản lý thuế và quản lý về chất lượng hàng hóa, chống lừa đảo.

Thị trường sôi động

Theo số liệu quản lý thuế đến năm 2024 thì ngành Thuế đang quản lý 123.759 người nộp thuế có hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực TMĐT.Trong đó gồm 88.147 cá nhân, 35.131 doanh nghiệp bán hàng hóa thông qua sàn giao dịch TMĐT, 361 doanh nghiệp là chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT, 24 doanh nghiệp lớn hoạt động quảng cáo trên môi trường mạng, 96 nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở kinh doanh cố định tại Việt Nam.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Số liệu quản lý thuế trong 2 năm gần nhất đã ghi nhận kết quả thu thuế từ các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh TMĐT. Năm 2022 số thuế đã nộp là 83 nghìn tỷ đồng; năm 2023 là 97 nghìn tỷ đồng; 5 tháng đầu năm 2024 là trên 50 nghìn tỷ đồng. Lũy kế đến nay đã có 96 nhà cung cấp nước ngoài đã kê khai, nộp thuế với số thuế trên 15,6 nghìn tỷ đồng.

Tại Hội nghị sơ kết 1 năm tháo gỡ điểm nghẽn trong triển khai Đề án 06 và đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ phát triển TMĐT, chống thất thu thuế (10/6), Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc chia sẻ, về quy mô, theo đánh giá của Bộ Công Thương, thị trường TMĐT của Việt Nam hiện là 20,5 tỷ USD và sẽ đạt 30,5 tỷ USD vào năm 2025. Từ đó đặt ra yêu cầu về quản lý thuế, quản lý về chất lượng hàng hóa, chống lừa đảo.

Thực hiện Chỉ thị 18 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã đẩy mạnh và chia sẻ dữ liệu TMĐT, chống thất thu thuế; tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 56 ngày 26/6/2024. Về xây dựng và chia sẻ dữ liệu, hiện nay việc chia sẻ dữ liệu thuế, mã số thuế định danh theo căn cước công dân, đến 3/6/2024 đã đạt 97,57%. Bộ Tài chính cùng với Bộ Công Thương đã chia sẻ dữ liệu về 929 sàn giao dịch TMĐT tương ứng với 847 doanh nghiệp là chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT và 284 ứng dụng bán hàng trên mạng.

Về kê khai, nộp thuế, Bộ Tài chính đã áp dụng định danh và xác thực điện tử đối với: Cá nhân thực hiện đăng ký kê khai, nộp thuế; dịch vụ chữ ký số, viễn thông, tên miền; cá nhân mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng; đang triển khai khuyến khích các sàn giao dịch TMĐT áp dụng đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh trên sàn.

Về kết quả quản lý thuế với TMĐT tại Việt Nam, triển khai hóa đơn điện tử, máy khởi tạo tính tiền, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho hay, Bộ Tài chính đã triển khai hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền. Đến nay đã có 61 nghìn cơ sở kinh doanh áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền với số lượng hóa đơn đã sử dụng là 464,8 triệu hóa đơn.

Đối với việc áp dụng hóa đơn điện tử trong lĩnh vực kinh doanh vàng thì 100% các doanh nghiệp đã áp dụng hóa đơn điện tử có kết nối với cơ quan thuế theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP của Chính phủ, trong đó có 7.225 doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh vàng, bạc đã thực hiện áp dụng giải pháp hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền với số lượng hóa đơn đã sử dụng là 1,34 triệu hóa đơn.

Tháo gỡ vướng mắc

Lãnh đạo Bộ Tài chính nêu rõ một số vấn đề còn vướng mắc. Đó là, một số địa phương chưa xây dựng kế hoạch chuyển đổi số và thực hiện về TMĐT, phát triển công nghệ thông tin. Về phân cấp quản lý ngân sách, phải dùng ngân sách địa phương nhưng có những địa phương ngân sách yếu, Nhà nước phải hỗ trợ. Một số bộ, ngành cũng chưa có đăng ký từ đầu năm nên cơ sở phân bổ rất khó. Sau khi các bộ, ngành có đề xuất, Bộ Tài chính đề xuất Thủ tướng có thể dùng một phần dự phòng ngân sách để cấp cho phần này.

Để đẩy mạnh chống thất thu thuế trong hoạt động TMĐT, lãnh đạo Bộ Tài chính kiến nghị 7 giải pháp: Thứ nhất, kết nối dữ liệu, liên thông đồng bộ giữa các bộ, ngành, đặc biệt dữ liệu dân cư, dữ liệu TMĐT, dữ liệu thanh toán qua ngân hàng… để đối chiếu một cách nhanh chóng yêu cầu kê khai nộp thuế, yêu cầu thanh tra kiểm tra.

Thứ hai, rà soát hoàn thiện pháp luật. Các bộ luật liên quan đến TMĐT từ năm 2014 cho nên cần phải rà soát lại các nghị định, thông tư liên quan để sửa. Thứ ba, xây dựng Cổng Thông tin đăng ký kê khai thuế của sàn TMĐT trong nước, đôn đốc kê khai, chọn thanh tra, xử lý một số trường hợp trốn thuế.

Thứ tư, định danh và xác thực điện tử, đồng bộ liên thông dữ liệu thông tin hàng hóa. Thứ năm, áp dụng thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt càng phổ biến thì quản lý và thu thuế càng cao. Thứ sáu, sửa đổi Nghị định số 117/2018/NĐ-CP ngày 11/9/2018 về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thứ bảy, quản lý hoạt động TMĐT qua mạng xã hội để thu thuế vì giờ người dân livestream, bán hàng qua mạng xã hội rất nhiều. Theo sát mạng xã hội cùng với việc đối chiếu với ngân hàng sẽ thu được nguồn thuế rất lớn.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện số 56/CĐ-TTg ngày 6/6/2024 yêu cầu các bộ ngành, địa phương tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực TMĐT, kinh doanh trên nền tảng số. Để tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực TMĐT, hoạt động kinh doanh trên nền tảng số, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan tiếp tục nghiên cứu, rà soát cắt giảm thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người nộp thuế thực hiện kê khai, nộp thuế. Tối ưu hóa quy trình thông quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu qua TMĐT; đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả thực hiện nghĩa vụ thuế. Tăng cường triển khai các giải pháp thu thuế, chống thất thu thuế, xử lý nghiêm các vi phạm về thuế, hải quan trong hoạt động thương mại điện tử.

Bảo Thoa

Nguồn LĐTĐ: https://laodongthudo.vn/quan-ly-thue-tren-nen-tang-so-172110.html