Quản lý, vận hành đường cao tốc an toàn, thông minh, hiệu quả, bền vững
Mục tiêu 3.000km cao tốc vào cuối năm 2025 đang đến rất gần và hướng tới 5.000km đường cao tốc vào năm 2030, góp phần hình thành 'khung xương sống' của hệ thống vận tải quốc gia. Điều này cũng đặt ra những thách thức không nhỏ trong công tác quản lý, vận hành và khai thác hiệu quả, an toàn, bền vững hệ thống đường cao tốc.

Cục Đường bộ Việt Nam và Trường đại học Xây dựng Hà Nội ký thỏa thuận hợp tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, hướng tới chuẩn hóa tiêu chuẩn kỹ thuật, sổ tay quản lý, vận hành và bảo trì đường cao tốc.
Yêu cầu cấp bách về quản lý, vận hành đồng bộ hệ thống cao tốc
Từ chỗ chỉ có vài trăm km cao tốc vào đầu những năm 2010, Việt Nam đã bước sang giai đoạn phát triển mạnh mẽ hạ tầng chiến lược. Theo ông Nguyễn Thanh Hoài, Phó Cục trưởng Đường bộ Việt Nam: Đến cuối năm 2025, cả nước sẽ có trên 3.000km đường cao tốc, hướng tới 5.000km vào năm 2030 và 9.000km vào năm 2050. Sự phát triển nhanh chóng này đặt ra thách thức lớn về quản lý, vận hành và bảo trì. Các tuyến cao tốc của Việt Nam được đầu tư trong nhiều giai đoạn, với quy mô, tiêu chuẩn và công nghệ khác nhau, dẫn đến sự không đồng bộ trong tổ chức khai thác.
Ông Hoài cho biết: “Hiện nay, trên thế giới, các hệ thống đường cao tốc đã phát triển ở mức độ hoàn chỉnh, gắn liền với các trung tâm điều hành thông minh, dữ liệu dùng chung và giám sát toàn tuyến. Việt Nam cần nhanh chóng tiếp cận thông lệ quốc tế, ứng dụng công nghệ tiên tiến để hướng tới mục tiêu “an toàn hơn, thông minh hơn, hiệu quả hơn, bền vững hơn”.
Ông Nguyễn Thanh Hoài, Phó Cục trưởng Đường bộ Việt Nam.
Bộ Xây dựng và Cục Đường bộ Việt Nam đang triển khai hệ thống giao thông thông minh (ITS) trên các đoạn tuyến cao tốc bắc-nam, hướng tới việc hình thành Trung tâm quản lý giao thông thông minh quốc gia trong giai đoạn 2026-2030. Hệ thống này sẽ kết nối các trung tâm chỉ huy của Cảnh sát giao thông, trung tâm điều hành đô thị lớn và cơ sở dữ liệu quốc gia, tạo thành một khối dữ liệu lớn phục vụ giám sát, chỉ huy, cảnh báo và điều phối giao thông toàn mạng lưới.
Chuyển đổi số và công nghệ thông minh, chìa khóa nâng cao hiệu quả khai thác
Ông Bùi Phú Doanh, Phó Hiệu trưởng Trường đại học Xây dựng Hà Nội cho rằng, quản lý và vận hành đường cao tốc không chỉ là hoạt động kỹ thuật, mà là một quá trình chuyển đổi tư duy. “Từ chỗ duy tu, bảo trì truyền thống, chúng ta cần chuyển sang quản lý theo phương pháp hiệu quả, ứng dụng mạnh mẽ chuyển đổi số, công nghệ thông minh và trí tuệ nhân tạo để dự báo, điều chỉnh, bảo đảm khai thác an toàn và bền vững”, ông Doanh nhấn mạnh.
Theo đại diện Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, Việt Nam đã có những kinh nghiệm ban đầu từ các tuyến cao tốc Hà Nội-Hải Phòng, Nội Bài-Lào Cai, Long Thành-Dầu Giây. Tuy nhiên, để vận hành hệ thống hơn 3.000km cao tốc hiện nay, cần sớm hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm kỹ thuật và định mức đơn giá cho công tác vận hành, làm cơ sở để các đơn vị quản lý thực hiện hiệu quả, minh bạch.
Các chuyên gia cũng kiến nghị đẩy mạnh ứng dụng công nghệ ITS (Intelligent Transport Systems), đặc biệt trong giám sát phương tiện, điều tiết lưu lượng, cảnh báo sớm sự cố, và thu phí dòng tự do đa làn (MLFF), những công nghệ cốt lõi của giao thông thông minh hiện đại.
Ông Bùi Phú Doanh, Phó Hiệu trưởng Trường đại học Xây dựng Hà Nội.
Một trong những điểm sáng trong lộ trình hiện đại hóa giao thông Việt Nam là triển khai Hệ thống thu phí điện tử không dừng (ETC) trên toàn quốc từ năm 2022. Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Hiệp, Viện trưởng Viện Quy hoạch và Kỹ thuật Giao thông Vận tải (Trường đại học Xây dựng Hà Nội), đây là “bước đột phá lớn” áp dụng công nghệ RFID kết hợp nhận diện biển số tự động (ANPR), tạo tiền đề cho thu phí dòng tự do đa làn (MLFF).
Tuy nhiên, để triển khai MLFF hiệu quả, hệ thống ANPR cần nâng cấp khả năng nhận diện ở tốc độ cao (trên 120km/giờ) và tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) nhằm tăng độ chính xác và tự động hóa quá trình giám sát.
Về khung pháp lý, Nghị định 119/2024/NĐ-CP về thanh toán điện tử giao thông đường bộ (có hiệu lực từ 1/10/2025) cùng việc tích hợp VNeID với tài khoản ngân hàng đã mở đường cho Tài khoản giao thông quốc gia, nền tảng thanh toán, ghi nợ tự động và truy thu phí minh bạch.
Theo ông Hiệp, mô hình Hybrid MLFF kết hợp RFID (nhận dạng chính), ANPR (nhận diện bổ trợ), cảm biến laser (phân loại xe) và Trung tâm Thanh toán Bù trừ Quốc gia là giải pháp phù hợp nhất với điều kiện Việt Nam. “Giải pháp này đảm bảo an toàn giao thông (không barie), minh bạch tài chính (bù trừ chung) và tiện lợi cho người dùng (một tài khoản ghi nợ tự động)”, ông nói.
Kết nối giữa quản lý nhà nước, đào tạo, nghiên cứu, doanh nghiệp
Cục Đường bộ Việt Nam và Trường đại học Xây dựng Hà Nội đã ký thỏa thuận hợp tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, hướng tới chuẩn hóa tiêu chuẩn kỹ thuật, sổ tay quản lý, vận hành và bảo trì đường cao tốc.
Ông Nguyễn Thanh Hoài nhấn mạnh: “Cùng với việc huy động nguồn lực từ hợp tác công tư, chúng tôi hợp tác với trường Đại học Xây dựng Hà Nội, cơ sở đào tạo và nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực giao thông vận tải. Chúng tôi kỳ vọng sự phối hợp này sẽ gắn lý luận với thực tiễn, xây dựng các giải pháp khoa học và tiêu chuẩn quốc gia, phục vụ hiệu quả công tác quản lý, khai thác và bảo trì hệ thống cao tốc Việt Nam”.
Ông Bùi Phú Doanh cho biết: “Nhà trường có đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực giao thông thông minh (ITS), sẽ phối hợp chặt chẽ với Cục Đường bộ Việt Nam để đề xuất các kiến nghị và giải pháp phù hợp, tham khảo kinh nghiệm từ những quốc gia đang vận hành hệ thống cao tốc tiên tiến trên thế giới. Mục tiêu là xây dựng một hệ thống quản lý, vận hành đồng bộ, hiện đại và tương thích với nền tảng công nghệ mà Việt Nam đang đầu tư triển khai”.
Với tầm nhìn dài hạn đến năm 2050, Việt Nam đang tiến bước trên con đường hiện đại hóa hạ tầng giao thông theo hướng số hóa, thông minh và bền vững, trong đó quản lý, vận hành cao tốc thông minh chính là nền tảng cốt lõi để bảo đảm an toàn, hiệu quả và năng lực cạnh tranh quốc gia.













