Quốc chúa đô mộc Dã Đại Vương và những bí ẩn thú vị

Nằm trong cụm quần thể di tích Tiên Lục (Bắc Giang) đã được Nhà nước xếp hạng di sản Quốc gia, cây dã hương cổ kính đại thụ nghìn năm tuổi ở Bắc Giang được vua phong là 'Quốc chúa đô mộc Dã Đại Vương' và cũng là cây dã hương độc nhất vô nhị trên thế giới.

Theo nghiên cứu từ những ghi chép để lại, cây dã hương bắt đầu được biết đến từ thời Vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786).

Theo nghiên cứu từ những ghi chép để lại, cây dã hương bắt đầu được biết đến từ thời Vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786).

Không chỉ là cây di sản với vóc dáng bề thế, uy dũng, cây dã hương đặc biệt này còn là chứng nhân sống của lịch sử và mang nhiều ý nghĩa tâm linh sâu sắc.

Cây dã hương duy nhất được vua sắc phong

Theo nghiên cứu từ những ghi chép để lại, cây dã hương bắt đầu được biết đến từ thời Vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786). Năm ấy, cây dã hương được Nhà Vua phát hiện từ một hiện tượng thiên nhiên rất kỳ lạ. Chuyện xưa kể lại, sau một lần đi vi hành qua xã Tiên Ngoại, Vua Lê Hiển Tông tình cờ phát hiện thấy một cây cổ thụ rất to, tán lá phủ rộng cả một góc trời, đặc biệt từ thân cây tỏa ra một mùi hương thơm nhẹ nhàng, dễ chịu, khi lại gần thì có cảm giác tinh thần sảng khoái hẳn lên.

Thấy lạ, vị Vua không khỏi ngỡ ngàng bèn hỏi các cận thần thì biết cây có tên là dã hương. Hôm đó, sau khi thấy được sự đặc biệt của cây dã hương, Nhà Vua đã sắc phong cho cây là “Quốc chúa đô mộc Dã Đại Vương (cây dã hương lớn nhất đất nước). Theo tài liệu nghiên cứu, thời điểm ấy, dã hương là cây duy nhất được vua sắc phong cho cái tên độc đáo như vậy. Đặc biệt, làng Tiên Lục có sáu vị Thành hoàng thì một trong các vị đó chính là cây dã hương đại thụ.

Trước đây, có một cây dã hương tương tự ở Nam Phi, tuy nhiên cây này hiện đã chết nên cây dã hương ở Tiên Lục, Bắc Giang chính là cây độc nhất vô nhị trên thế giới hiện nay.

Vào thời Pháp thuộc, cây đã được ghi tên, in ảnh trong cuốn Từ điển bách khoa Larouse của Pháp và giới thiệu ảnh tại Hội chợ Marseille năm 1932; được Trường Viễn Đông Bắc Cổ (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam) xếp vào loại cây cổ thụ quý hiếm của Việt Nam. Sau này, cây được xếp hạng di tích quốc gia vào năm 1989 và đến năm 2012 cây được công nhận là Cây di sản Việt Nam.

Vì tuổi nghìn năm, để trợ lực cho cây đứng vững, dân làng Giữa đã dựng lên mấy cột trụ đỡ những cành già. Thậm chí, đã có thời điểm cả huyện Lạng Giang đã phải vào cuộc để tìm phương hướng bảo tồn cây quý như làm rào chắn bảo vệ, bồi bổ cây bằng cách bón phân, đất, bắt mối mọt xông cây… nhằm nỗ lực để gìn giữ cho được di sản quốc gia. Đến năm 2004, cụm di tích này được hỗ trợ hơn 2 tỷ đồng để trùng tu và tôn tạo. Trong đó, Ban quản lí di tích đã trích một phần để làm hàng rào sắt bảo vệ quanh gốc cây dã hương và xây hệ thống bậc tam cấp bằng bê tông để du khách gần xa đến chiêm ngưỡng.

Đứng dưới tán lá xanh rì, sức sống kỳ lạ của cây dã trong hành trình nghìn năm mưa nắng. Thân cây sừng sững, vững chãi, rộng đến tám sải tay. Theo số liệu được các nhà nghiên cứu khoa học, chu vi nhỏ nhất của gốc cây hơn 8,3m, lớn nhất hơn 11m. Cây to khoảng tám người ôm. Lá dã hương nhỏ nhưng trổ thành từng chùm dày, đan xít theo cành rồi bung ra tạo thành chiếc ô lớn, rộng đến vài trăm mét vuông. Trên lớp vỏ sần sùi ở các cành đại cơ man nào địa y, rêu, tảo… bám dày.

Dấu ấn thời gian có làm suy đi một số cành già yếu nhưng tổng thể của cây vẫn phô diễn đầy sức mạnh. Chồi xanh, lá biếc vẫn đua nhau khoe sắc trong tiết xuân lạnh giá.

Theo thời gian, dã hương càng to lớn và trở nên quý hiếm hơn, đặc biệt mùi thơm của cây thì không lẫn vào đâu được. Nó thơm nhẹ nhàng, ngửi kỹ thì như tổng hòa của các loại lá cây dùng để xông cho người ốm (lá xả, hương nhu, bưởi...). Dã hương (thuộc họ long não) vẫn được biết đến là loại cây chứa nhiều tinh dầu thơm, gỗ đốt có mùi thơm như hương trầm. Đặc biệt, rễ cây có chứa chất Safrol – một trong những thành phần có giá trị đặc biệt trong việc chế biến thực phẩm và mỹ phẩm. Cũng chính bởi mùi hương và công dụng khử mùi ẩm mốc, xua đuổi ruồi muỗi nên người dân nơi đây coi “Dã đại vương” là cây thiêng giúp dân làng có sức khỏe tốt, ít bị các bệnh dịch truyền nhiễm.

Chính bởi giá trị lịch sử cùng mùi hương đặc trưng khó lý giải tỏa ra đã khiến cây dã hương cổ thụ càng trở nên quý hiếm. Nhiều người cũng cho rằng, do có niên đại nghìn năm tuổi, lại thuộc loài quý hiếm cây tỏa ra “linh khí”. Vào mùa xuân, cụ thể là cuối mùa xuân là thời điểm “linh khí” của cây dã hương tỏa ra nhiều nhất, mùi hương đượm nhất. Vì thế, du khách khắp mọi nơi thường tìm đến xã Tiên Lục vào thời điểm mùa xuân, những mong hấp thụ được “linh khí” của trời đất từ chính cây dã hương cổ. Lượng du khách đổ về xã Tiên Lục nhiều nhất vào tháng 4 bởi đây là tháng mà cây dã hương tỏa mùi thơm nhất. Hoa dã hương thường nở vào cuối mùa xuân, có màu vàng nhạt.

Cây được coi như một linh vật của người dân quanh vùng với nhiều giai thoại và cũng là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho người dân.

Những sự trùng hợp kỳ lạ

Cây dã hương nghìn năm tuổi không chỉ mang dáng vẻ uy nghi, cổ kính mà còn có sức cuốn hút du khách bởi những giai thoại về sự kiện lịch sử đổi thay của đất nước gắn bó một cách lạ lùng với truyền tích về cây dã hương.

 Ông Hoàng Viết Nên giới thiệu lịch sử và giá trị của Quốc chúa đô mộc Dã Đại Vương.

Ông Hoàng Viết Nên giới thiệu lịch sử và giá trị của Quốc chúa đô mộc Dã Đại Vương.

Theo ông Hoàng Viết Nên - người quản lý, giới thiệu khu di tích cây dã hương, các bậc cao niên đất Tiên Lục đã nghiệm ra một hiện tượng khá thú vị, đó là mối liên hệ giữa cây dã hương cổ thụ với đời sống xã hội đương thời: Cây dã hương chẳng bao giờ gãy cành vì gió bão, nhưng khi có một cành nào đó già khô rơi xuống nhường lại cho những cành mới vươn lên đều báo hiệu một sự chuyển biến lớn của đất nước.

Năm 1945, gãy một cành phía Đông - Bắc. Các cụ gọi đó là cành “Lập nước” vì đó là năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đến năm 1954 lại gãy một cành phía Tây, vì năm đó quân dân ta đã giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch Điện Biên Phủ nên các cụ gọi đó là cành “Hòa bình”. Năm 1964, “cụ dã” gãy cành phía Nam. Cành đó gọi là cành “Gây hấn” vì trong năm này Mỹ bắt đầu gây hấn ở Vịnh Bắc Bộ để lấy cớ đánh phá miền Bắc. Năm 1975 gãy cành phía Tây trên cao, cành này ứng với sự kiện miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước nên gọi là cành “Thống nhất”. Năm 1984, gãy cành phía Tây Bắc, đó là một cành đại thụ. Cành đó bình thường hướng sang phía đao đình nhưng khi rơi nó lại bỗng nhiên ngoặt ra ngoài chứ không rơi xuống đao đình. Cành đó, mọi người nhất trí gọi là cành “Đổi mới” hay “Khoán 10”. Bởi nếu theo sách vở thì phải bước qua năm 1986 mới có chính sách đổi mới nhưng thực tế ở nông thôn đã chuyển mình từ năm 1984.

Năm 2006, vào 22/10, gãy cành trên ngọn, chỉ về phía Nam, đường kính của cành đó là 60cm. Vào đúng tháng 11, Việt Nam được Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) công nhận là thành viên chính thức WTO, cành đó được đặt tên là cành “Hội nhập”. Tất cả các cành gãy đều được chính quyền, người dân cùng các nhà khoa học tìm cách gắn kết, phục hồi.

 Du khách khắp mọi nơi tới chiêm ngưỡng cây dã hương nghìn tuổi.

Du khách khắp mọi nơi tới chiêm ngưỡng cây dã hương nghìn tuổi.

Cây dã hương không chỉ là niềm tự hào của người dân Tiên Lục mà còn là di sản quốc gia. Hàng ngày có rất nhiều đoàn khách về đây chiêm ngưỡng, cảm nhận vẻ đẹp của cây “dã đại vương” nghìn năm tuổi, để hít sâu vào lồng ngực hương thơm tinh khiết. Hơn nữa còn được nghe những câu chuyện ly kỳ mà người dân nơi đây lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên những thông điệp có ý nghĩa nhân văn sâu sắc về một cây cổ thụ như một biểu tượng, tượng trưng cho sức sống trường tồn của dân tộc.

“Thần mộc dã hương” - báu vật của Việt Nam còn sót lại sau nhiều biến động, thăng trầm của thời gian và lịch sử sừng sững hiên ngang, trường tồn giữa đất trời như khí phách nghìn đời của cha ông ta.Bảo Châu

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/quoc-chua-do-moc-da-dai-vuong-va-nhung-bi-an-thu-vi-post434671.html