Quy định rõ tiêu chí đối với thu nhập được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp

Tại dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) đã sửa đổi, bổ sung nội dung, tiêu chí và điều kiện cụ thể đối với một số khoản thu nhập được miễn thuế trên cơ sở luật hóa các quy định đã được thực hiện ổn định tại các văn bản dưới Luật.

Nhằm lấy thêm ý kiến tham góp vào dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi), Bộ Tài chính phối hợp với Tổ chức hợp tác quốc tế Đức (GIZ) tổ chức hội thảo lấy ý kiến các chuyên gia, nhà quản lý.

Giảm thuế nhanh hơn lộ trình hỗ trợ doanh nghiệp

Theo ông Trương Bá Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí (Bộ Tài chính), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) hiện hành được Quốc hội khóa XII tại kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 3/6/2008, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2009 (thay thế cho Luật Thuế TNDN năm 2003) và đã được sửa đổi, bổ sung 3 lần vào năm 2013, năm 2014 và năm 2020.

Doanh nghiệp Việt được hưởng mức thuế TNDN thấp hơn một số nước trong khu vực. Ảnh: Tư liệu

Doanh nghiệp Việt được hưởng mức thuế TNDN thấp hơn một số nước trong khu vực. Ảnh: Tư liệu

Qua hơn 15 năm thực hiện, Luật Thuế TNDN đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế xã hội của đất nước và đạt được các kết quả quan trọng.

Ông Trương Bá Tuấn cho biết, Luật Thuế TNDN đã xóa bỏ triệt để sự đối xử phân biệt về chính sách thuế TNDN giữa các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp; thực hiện giảm nghĩa vụ thuế cho doanh nghiệp thông qua việc điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN phổ thông.

Luật đã được hoàn thiện theo đúng định hướng cải cách hệ thống thuế, phí và lệ phí được xác định trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, đồng thời, bám sát các mục tiêu, định hướng xác định trong Chiến lược cải cách hệ thống chính sách thuế giai đoạn 2011-2020. Qua đó, đã góp phần quan trọng trong việc tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, đảm bảo công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.

Ông Trương Bá Tuấn cho biết, Luật Thuế TNDN đã xóa bỏ triệt để sự đối xử phân biệt về chính sách thuế TNDN giữa các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp; thực hiện giảm nghĩa vụ thuế cho doanh nghiệp thông qua việc điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN phổ thông. Cùng với đó, Luật đã điều tiết được hầu hết các khoản thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng cơ sở thuế phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.

Trên thực tế, những năm qua, Luật Thuế TNDN đã tiếp tục giảm mức thuế suất phổ thông thuế TNDN từ 25% xuống 22% từ 1/1/2014, riêng các doanh nghiệp quy mô nhỏ được áp dụng mức 20% ngay từ 1/7/2013. Từ ngày 1/1/2016, mức thuế suất thuế TNDN phổ thông áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp là 20%.

Như vậy, việc giảm thuế TNDN trên thực tế đã sớm hơn và giảm nhanh hơn theo lộ trình đề ra, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ.

Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, sự phát triển kinh tế - xã hội, Luật Thuế TNDN đã bộc lộ một số hạn chế, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung quy định.

Bao quát các nguồn thu thực tế mới phát sinh

Dự thảo Luật Thuế TNDN (sửa đổi) gồm 4 Chương, 20 Điều. Dự thảo Luật đã bám sát theo các nhóm chính sách tại hồ sơ lập đề nghị xây dựng và đã được Quốc hội đồng ý. Dự thảo Luật đã luật hóa một số nội dung đang thực hiện ổn định tại các văn bản dưới Luật.

Dự thảo Luật quy định rõ thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam đối với doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam. Ảnh: Tư liệu.

Dự thảo Luật quy định rõ thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam đối với doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam. Ảnh: Tư liệu.

Đối với việc luật hóa nội dung quy định tại Nghị quyết số 107/2023/QH15 về áp dụng thuế TNDN bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu, qua nghiên cứu, rà soát cho thấy mặc dù Nghị quyết số 107/2023/QH15 có hiệu lực từ kỳ tính thuế năm 2024 song việc kê khai, nộp thuế TNDN bổ sung có thời hạn từ 12 - 18 tháng sau khi kết thúc năm tài chính 2024.

Theo đó, trên thực tế, tới năm 2026 doanh nghiệp mới đến thời hạn áp dụng quy định tại Nghị quyết số 107/2023/QH15 và chưa thể đánh giá được hiệu quả và những vấn đề phát sinh trong thực tiễn thực hiện. Do vậy, tại dự thảo Luật chưa bổ sung nội dung luật hóa các quy định tại Nghị quyết số 107/2023/QH15 nêu trên để đảm bảo nguyên tắc, quan điểm xây dựng Luật là “Luật hóa những vấn đề đã rõ, đã được thực tế kiểm nghiệm là phù hợp, bao gồm cả những nội dung đã được thực hiện ổn định tại các văn bản dưới Luật".

Dự thảo Luật đã quy định chi tiết về các đối tượng người nộp thuế là doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp trên cơ sở luật hóa quy định đang được thực hiện ổn định tại các văn bản dưới Luật. Quy định rõ thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam đối với doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, bao gồm cả thu nhập từ hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo các hình thức kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số, không phụ thuộc vào địa điểm tiến hành kinh doanh.

Ngoài ra, dự thảo Luật đã bổ sung quy định việc tuân thủ điều ước quốc tế trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia có quy định khác về cơ sở thường trú nhằm phù hợp với Luật điều ước quốc tế cũng như việc thực hiện cam kết của Việt Nam khi tham gia các điều ước quốc tế có liên quan…

Đáng lưu ý, tại dự thảo Luật, về thu nhập được miễn thuế, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung nội dung, tiêu chí và điều kiện cụ thể đối với một số khoản thu nhập được miễn thuế trên cơ sở luật hóa các quy định đã được thực hiện ổn định tại các văn bản dưới Luật. Ngoài ra, bổ sung quy định liên quan đến phần thu nhập không chia của cơ sở thực hiện xã hội hóa được miễn thuế để quy định trường hợp pháp luật chuyên ngành không quy định cụ thể mức tỷ lệ của phần thu nhập không chia trên thu nhập tính thuế của cơ sở thực hiện xã hội hóa thì mức tỷ lệ tối thiểu là 25% thu nhập tính thuế.

Tại dự thảo Luật cũng đã bổ sung thêm một số khoản thu nhập được miễn thuế gồm: Thu nhập từ chuyển nhượng tín chỉ các-bon lần đầu sau khi phát hành, thu nhập từ tiền lãi và từ chuyển nhượng trái phiếu xanh lần đầu sau khi phát hành; khoản hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước và từ Quỹ hỗ trợ đầu tư do Chính phủ thành lập; khoản bồi thường của Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản theo quy định của pháp luật để cổ phần hóa, sắp xếp lại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; thu nhập của đơn vị sự nghiệp công lập từ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công; thu nhập từ hoạt động có thu của Quỹ công nghiệp quốc phòng, an ninh, Quỹ hỗ trợ đầu tư cũng được dự thảo Luật quy định là khoản thu nhập miễn thuế./.

Thuế suất phổ thông 20% đảm bảo sự cạnh tranh trong khu vực

Trong hơn 10 năm qua, Việt Nam đã từng bước giảm thuế suất thuế TNDN phổ thông qua các lần sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNDN theo đúng lộ trình đề ra.

Từ ngày từ 1/1/2016, mức thuế suất phổ thông thuế TNDN áp dụng là 20%; riêng doanh nghiệp có quy mô nhỏ được áp dụng thuế suất 20% ngay từ 1/7/2013.

So với các nước trong khu vực ASEAN, mức thuế suất thuế TNDN phổ thông 20% là bằng với mức thuế suất đang áp dụng tại Thái Lan, Lào, Campuchia; thấp hơn so với Phi-lip-pin (30%), My-an-ma (25%), Ma-lai- xa -a (24%), In-đô-nê-xi-a (22%) và cao hơn so với Xinh-ga-po (17%), Bru-nây (18,5%).

Việc duy trì mức thuế suất phổ thông 20% đã đảm bảo sự cạnh tranh với các nước trong khu vực, phù hợp với thực tiễn hiện nay.

Minh Anh

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/quy-dinh-ro-tieu-chi-doi-voi-thu-nhap-duoc-mien-thue-thu-nhap-doanh-nghiep-158811.html