Quy định thẩm quyền của Tòa án trong xác định người thừa kế
Thảo luận tại Hội trường về dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) sáng 11/11, một số đại biểu đề nghị, cần xem xét quy định thẩm quyền của Tòa án trong việc xác định người thừa kế; quy trình, thủ tục kê biên tạm thời tài sản trong trường hợp người phải thi hành án chết mà chưa thể xác định được người thừa kế.
Cơ quan thi hành án được phép chỉ định tạm thời người quản lý di sản để thực hiện nghĩa vụ thi hành án
ĐBQH Huỳnh Thị Phúc (TP. Hồ Chí Minh) đánh giá cao quy định chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án, đây là quy định mới, rất cần để giải quyết những vướng mắc, bất cập trong tổ chức thi hành án, bảo đảm công tác này không bị gián đoạn, kể cả khi tổ chức, doanh nghiệp có sự thay đổi, hợp nhất, sáp nhập, chia tách, giải thể, phá sản, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp như đã được quy định tại khoản 1, Điều 41.

ĐBQH Huỳnh Thị Phúc (TP. Hồ Chí Minh). Hồ Long
Tuy nhiên, để nâng cao tính khả thi khi áp dụng các điều, khoản liên quan đến việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ trong trường hợp người được thi hành án, người phải thi hành án chết, đại biểu Huỳnh Thị Phúc đề nghị ban soạn thảo và cơ quan thẩm tra quan tâm xem xét đối với “trường hợp người được thi hành án, người phải thi hành án là cá nhân chết thì quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật về thừa kế và hướng dẫn của Chính phủ” theo hướng bổ sung làm rõ hơn cơ chế xác định người thừa kế vào khoản 2, Điều 41.
Và, để bảo đảm việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về thừa kế trong trường hợp chưa có quyết định phân chia di sản, đại biểu cho rằng, nên xem xét bổ sung quy định về thẩm quyền của cơ quan thi hành án được phép chỉ định tạm thời người quản lý di sản để thực hiện nghĩa vụ thi hành án; Tòa án có thẩm quyền xác định người thừa kế để thống nhất việc áp dụng Luật khi thực hiện kê biên tạm thời trong trường hợp tài sản của người chết chưa thể xác định được người thừa kế nhằm bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án.

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Quang Khánh
Đại biểu nhấn mạnh, để thống nhất việc áp dụng luật và bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án, cần xem xét quy định thẩm quyền của Tòa án trong việc xác định người thừa kế; quy trình, thủ tục kê biên tạm thời tài sản trong trường hợp người phải thi hành án chết mà chưa thể xác định được người thừa kế.
Đề xuất trên xuất phát từ thực tế cơ quan thi hành án gặp không ít khó khăn trong chuyển giao quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về thừa kế khi người phải thi hành án chết nhưng di sản để lại đang tranh chấp, chưa xác định được ai là người thừa kế hợp pháp; hoặc có những trường hợp người thừa kế là con, cháu… của người được thi hành án không muốn tiếp tục yêu cầu thi hành án hoặc có trường hợp người thừa kế ở nước ngoài hay là người chưa đủ năng lực hành vi dân sự để thi hành án…
“Các vướng mắc được nêu trên là thực tế làm cho thủ tục thi hành án bị ngưng trệ, phải dừng lại và hầu như trong tất cả các tình huống đó ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả áp dụng luật bởi sự "chờ", đó là: chờ hướng dẫn, chờ xác nhận, chờ cả người thừa kế… là nguyên nhân của số lượng, tỉ lệ vụ việc phải thi hành án tồn đọng”, đại biểu nêu rõ.
Văn phòng thi hành án dân sự được quyền đề nghị lực lượng công an bảo đảm trật tự, an toàn
Tại khoản 2, Điều 14, dự thảo Luật quy định:“Trường hợp có sự chống đối, cản trở việc thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự đề nghị lực lượng công an bảo đảm trật tự, an toàn theo quy định của pháp luật”.
Qua nghiên cứu, ĐBQH Cao Thị Xuân (Thanh Hóa) cho rằng, quy định tại khoản 2, Điều 14 chưa thật sự phù hợp.

ĐBQH Cao Thị Xuân (Thanh Hóa) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Đại biểu phân tích, theo quy định, trường hợp có sự chống đối, cản trở việc thi hành án, thì cơ quan thi hành án đề nghị phối hợp của lực lượng công an. Tuy nhiên, thực tế trong nhiều trường hợp cơ quan thi hành án rất khó có thể dự báo trước được việc đương sự có sự chống đối hay cản trở thi hành án hay không?
Đại biểu chỉ rõ, khi xảy ra chống đối, cản trở, cơ quan thi hành án mới đề nghị lực lượng công an phối hợp thì có thể sẽ không kịp thời, hiệu quả.
Hơn nữa, trong thực tiễn tổ chức thi hành án dân sự cho thấy, nếu chỉ có thi hành án “đơn thương độc mã” tổ chức thi hành án hiệu quả sẽ không cao. Rất cần sự chung tay vào cuộc của cấp ủy, chính quyền, lực lượng công an, tòa, viện”.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 17, thì cơ quan thi hành án dân sự gồm: Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố; cơ quan thi hành án quân khu và tương đương. Như vậy, quy định tại khoản 2, Điều 14 không áp dụng đối với Văn phòng thi hành án dân sự.

Quang cảnh phiên họp. Ảnh: Hồ Long
Trong khi đó, theo quy định tại khoản 1, Điều 27, khoản 1, Điều 31, khoản 1, Điều 32 thì Văn phòng thi hành án dân sự được quyền tổ chức thi hành án theo yêu cầu của đương sự đối với những bản án, quyết định giống như thẩm quyền thi hành án các bản án, quyết định của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố.
Từ những phân tích trên, đại biểu Cao Thị Xuân đề nghị, cơ quan soạn thảo cần cân nhắc chỉnh lý khoản 2, Điều 14 theo hướng bổ sung Văn phòng thi hành án dân sự được quyền đề nghị lực lượng công an bảo đảm trật tự, an toàn theo quy định của pháp luật; đồng thời, làm rõ theo quy định của pháp luật nào và trường hợp nào thì được xem là có sự chống đối, cản trở việc thi hành án để có cơ sở đề nghị lực lượng công an bảo đảm trật tự, an toàn.











