Sống ở vùng xung đột

Cuộc sống ở Abyei dạy tôi nhiều điều, nhưng trên hết là giá trị của hòa bình. Hòa bình không chỉ là sự vắng mặt của chiến tranh, mà còn là sự hiện diện của hy vọng, của những ước mơ về một tương lai tốt đẹp hơn…

Giá trị của hòa bình

Khu vực Abyei, nơi tranh chấp giữa Sudan và Nam Sudan là nơi mà cuộc sống thiếu thốn trăm bề, người dân sống trong cảnh nghèo khó vì nội chiến triền miên. Nhưng chính trong hoàn cảnh này, những chiến sĩ Công an mũ nồi xanh Việt Nam chúng tôi mới thấm thía được giá trị của hòa bình qua những câu chuyện thường ngày của người dân nơi đây.

Thiếu tá Thắng (bìa trái) phối hợp với lực lượng bảo vệ an ninh cộng đồng Abyei nắm tình hình, kết quả điều tra vụ án.

Thiếu tá Thắng (bìa trái) phối hợp với lực lượng bảo vệ an ninh cộng đồng Abyei nắm tình hình, kết quả điều tra vụ án.

Ở Phái bộ UNISFA, chúng tôi gặp ông lão Kuol Anhiany - một trong những người dân địa phương được phái bộ tuyển dụng làm nhân viên. Gọi là ông lão, nhưng thực ra ông mới chỉ 51 tuổi. Ông có 11 năm cống hiến cho lực lượng cảnh sát của phái bộ kể từ khi phái bộ thành lập đến nay. Chúng tôi thường nói rằng khi nào vùng đất này đạt được nền hòa bình và thành lập được lực lượng cảnh sát chính thức, sẽ “đề cử” ông là cảnh sát trưởng, bởi khó có ai vượt được ông về kinh nghiệm và sự am hiểu địa bàn.

Ông Kuol hiền lành, cần mẫn với công việc và luôn cố gắng kiếm đủ tiền để nuôi vợ và 9 người con. Ở vùng tranh chấp này, việc học hành là điều xa xỉ. Vì thế ông “đầu tư” cho các con đi học ở nước láng giềng Uganda với hy vọng cuộc sống sau này sẽ được cải thiện. Trên những cung đường tuần tra, ông giải đáp những câu hỏi của chúng tôi về vùng đất mới, giới thiệu các loại cây, cỏ, động vật đặc trưng của vùng đất này. Tôi mê nhất là thảm cỏ lau xanh rì chỉ xuất hiện vào mùa mưa.

Có lần khi đi qua một cây cầu cũ, ông chỉ cho chúng tôi con sông và bảo rằng sông cũng chỉ là một vùng trũng có nước khi mùa mưa đến. Tôi khoe với ông rằng nhà tôi ở Việt Nam cũng nằm cạnh con sông Hồng chảy qua thủ đô Hà Nội, cũng có hàng cỏ lau mà nhiều người thường đến chụp ảnh. Ông tò mò hỏi rằng chắc tôi đi công tác xa nhà lâu ngày sẽ lo cho gia đình lắm, vì ở nhà cạnh sông sẽ có nhiều… cá sấu. Sau khi nghe tôi kể về thành phố nơi tôi sống và làng quê nơi tôi sinh ra bình yên và rất đẹp, ông mong ước một ngày sẽ được đến Việt Nam để tận mắt chứng kiến sự khác biệt so với vùng đất quanh năm chỉ có bùn đất và những túp lều lụp xụp, tối tăm.

Có lần chúng tôi hỏi ông khi nào chiến tranh sẽ kết thúc. Ông không trả lời, chỉ lặng lẽ khóc. Khát khao mãnh liệt về một cuộc sống hòa bình hay chỉ đơn giản là không có xung đột, đổ máu luôn thường trực trong ông, trong mỗi người dân nơi đây.

Ở Abyei, tôi nhận ra một thực tại phũ phàng. Hình như sống trong xung đột, chiến tranh liên miên, con người ở đây phần nào trở nên chai lỳ cảm xúc. Có những vụ việc thương tâm xảy đến, cả một làng trong đêm bị các tay súng vũ trang sát hại. Những người còn sống lặng lẽ tổ chức chôn cất cho người thân của họ. Trên khuôn mặt họ là sự chịu đựng, không cảm xúc, không tỏ ra đau đớn. Dường như cái chết đã trở thành một điều gì đó bình thường. Và, sự chết đi rồi không đáng sợ bằng việc đang sống nhưng hàng ngày, hàng giờ phải đối mặt với nghèo đói, dịch bệnh.

Tổ công tác số 3 có Trung tá Trịnh Xuân Hiển, Đại úy Nguyễn Lan Anh và tôi. Chúng tôi là những sĩ quan Cảnh sát Việt Nam đầu tiên có mặt ở vùng tranh chấp này. Bởi thế không hề có sự chỉ dẫn hay kinh nghiệm cụ thể nào khi đối mặt với những nguy hiểm, bất trắc ở đây. Chúng tôi phải nỗ lực thích nghi nhanh chóng để làm nhiệm vụ, tự tích lũy kinh nghiệm cho bản thân. Trên những chuyến tuần tra, không ít người khi thấy hình lá cờ Việt Nam trên quân phục của chúng tôi đã vẫy tay và reo lên “xin chào”. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ gần lại những xa xôi, cách trở, đủ để những trái tim Việt Nam ấm áp ở nơi lạ nước lạ cái này.

Trong hành trình gìn giữ hòa bình tại Abyei, việc duy trì bữa ăn hàng ngày là một thử thách không hề nhỏ. Bởi rau xanh ở nơi này thiếu thốn trầm trọng. Chúng tôi phải bổ sung tạm bằng gói canh ăn liền và rong biển khô. Để cải thiện tình hình, chúng tôi quyết tâm trồng thêm rau, nhưng không dễ dàng như ở Việt Nam mà chúng tôi phải trồng “chui”. Vì bộ phận quản lý doanh trại thường cho công nhân đi cắt cỏ định kỳ để ngăn muỗi, côn trùng và rắn, khiến các vườn rau bị cắt trụi. Mỗi khi biết thông tin có đợt cắt cỏ, anh chị em phải cấp báo, thay phiên nhau cử người về thu hoạch cho bằng hết rau củ, “làm giả” hiện trường như khu vườn vừa bị cắt trụi để công nhân bỏ qua, nhưng vẫn để phần gốc lại, để lứa rau sau tiếp tục mọc lên.

Thực phẩm có thể mua được trong cửa hàng của phái bộ nhưng cũng hạn chế và đắt đỏ, lại toàn là đồ trữ đông. Liên hợp quốc cũng nỗ lực nhằm đa dạng các nguồn cung cấp thực phẩm như bắp cải, cà chua và thịt bò từ Kenya, gà từ Argentina, cá từ Trung Quốc, gạo từ Ấn Độ. Cũng là hạt gạo nhưng không phải gạo nào cũng giống gạo nào. Phổ biến là gạo Ấn Độ có vị nhạt, rất khó ăn. Có giai đoạn chúng tôi mua được ít gạo từ Thái Lan gần giống gạo nhà, nhưng không thơm và ăn cũng rất nhanh đói. Nỗi nhớ rau, nhớ hạt gạo Việt Nam là nỗi nhớ dai dẳng nhất mà có lẽ chỉ sang đến đây tôi mới cảm nhận hết được. Cũng thật bất ngờ khi tại châu Phi nắng gió mà chúng tôi có thể mua được tôm biển Việt Nam theo hợp đồng giữa Liên hợp quốc với một nhà cung cấp từ trong nước.

Thực phẩm đông lạnh nhưng không phải lúc nào cũng sẵn. Có thời điểm cả tháng trời cửa hàng của phái bộ cạn hàng do các tuyến vận chuyển đều không thể di chuyển được. Lúc này, chai nước mắm ít ỏi mang theo từ nhà đã trở thành đặc sản quý hiếm, đến nỗi mỗi bữa chúng tôi chỉ dám ăn chút ít; hoặc phải chủ động dự trữ bằng cách làm muối vừng.

Ở Abyei hoàn toàn không có thịt lợn mà chỉ có thể mua được khi có anh chị em nào đi công tác hoặc về nước quá cảnh tại Uganda mua về. Mỗi khi được tiếp tế thịt lợn, mọi người chia nhau từng miếng. Mỡ, bì cũng được tận dụng, chiên giòn lấy mỡ, còn tóp mỡ thì để rim mắm ăn dần. Đó cũng là cách để chúng tôi đỡ nhớ đồ ăn nhà, để không quên hương vị Việt Nam.

Nhiều khi chúng tôi đi địa bàn cả ngày, yêu cầu công việc không cho phép nghỉ ngơi ăn trưa nên việc bỏ bữa là thường xuyên. Dọc đường cũng không dễ dàng tìm được hàng quán như ở nhà. Bởi người dân nơi đây đến ăn còn không đủ, nói gì đến việc bán hàng. Vì vậy, hoặc là chúng tôi ăn thật no trước khi đi, hoặc là phải tự chuẩn bị đồ ăn. Đồ ăn mang đi thường là quả trứng luộc, thanh lương khô bẻ sẵn thành từng mẩu, thỉnh thoảng ăn một miếng nhỏ sẽ có cảm giác no hơn so với việc ăn cả miếng lớn. Tôi thường pha sẵn chai nước với gói bù điện giải mang theo để chống mất nước.

Cuộc sống ở Abyei dạy chúng tôi biết trân trọng những điều nhỏ bé và giữ vững tinh thần lạc quan trong mọi hoàn cảnh. Ai cũng tự nhủ rằng mình còn may mắn hơn nhiều so với những người dân cơ cực nơi đây.

Ly cà phê Việt Nam ở phái bộ

Hành trang của những người lính mũ nồi xanh Việt Nam khi đi gìn giữ hòa bình không thể thiếu cà phê. Ly cà phê ấm làm dịu nỗi nhớ nhà. Cà phê còn để làm quà và giới thiệu với bạn bè quốc tế rằng Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới. Cà phê Việt Nam đã trở thành “thương hiệu” phủ sóng khắp phái bộ, là thứ quà quý khiến nhiều bạn đồng nghiệp “mê như điếu đổ”.

Thiếu tá Vũ Trần Thắng (thứ 3 từ phải qua) cùng đồng nghiệp tham gia hoạt động tuần tra đường không tháng 11/2024.

Thiếu tá Vũ Trần Thắng (thứ 3 từ phải qua) cùng đồng nghiệp tham gia hoạt động tuần tra đường không tháng 11/2024.

Ở đây, mọi người chuộng nhất là cà phê hòa tan, có sẵn bột kem, bột sữa béo ngậy. Có anh bạn bảo với tôi rằng chỉ cần một ly cà phê Việt Nam là anh ấy có năng lượng làm việc cả ngày. Số lượng cà phê mang theo có hạn, nên quà tặng bạn đôi khi chỉ là một gói nhỏ 15g đủ để pha một ly. Vậy nhưng đáng quý vô cùng, các bạn quốc tế cảm ơn rối rít. Cà phê mang hương vị của sự sẻ chia và tình bạn quốc tế, nhen lên niềm vui nhỏ bé ở vùng đất xa xôi này.

Ở Phái bộ UNISFA tồn tại cuộc một chiến không hồi kết giữa con người với… muỗi và côn trùng. Muỗi và sốt rét trở thành nỗi ám ảnh thường trực không chỉ với chúng tôi mà với tất cả nhân viên làm việc tại phái bộ. Màn chống muỗi, thuốc xịt muỗi và những chiếc vợt điện trở thành vũ khí không thể thiếu. Dần dần, tôi đã quen với tiếng vo ve hàng đêm. Không chỉ muỗi mà cả gián ở đây cũng có tốc độ sinh sôi khủng khiếp. Chúng có mặt ở khắp mọi nơi và sống khỏe đến mức xịt thuốc diệt côn trùng trực tiếp đến 4-5 lần mới diệt được. Chúng tôi đùa rằng, gián ở Abyei như những chiến binh bất khả chiến bại.

Những câu chuyện hài hước về cuộc chiến với muỗi, gián là cách để chúng tôi giảm bớt căng thẳng, là bài học về sự kiên nhẫn và khả năng thích nghi. Dù khó khăn vẫn luôn giữ tinh thần lạc quan và đoàn kết, bởi chúng tôi biết rằng, mỗi ngày trôi qua, chúng tôi đang góp phần gìn giữ hòa bình cho vùng đất đầy biến động này.

* Ghi theo lời kể của Thiếu tá Vũ Trần Thắng, sĩ quan Công an gìn giữ hòa bình tại khu vực Abyei, châu Phi.

Huyền Châm

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/so-tay/song-o-vung-xung-dot-i756470/