Sử dụng tối đa 'chìa khóa' xuất xứ hàng hóa để tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường CPTPP
Sau hơn 6 năm thực thi, Hiệp định CPTPP đã tạo động lực lớn, giúp nhiều ngành hàng của Việt Nam tăng trưởng xuất khẩu và thâm nhập sâu hơn vào thị trường các nước thành viên. Tuy nhiên, việc tận dụng lợi thế về quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan vẫn còn những điểm cần làm rõ...

Xuất khẩu thủy sản sang thị trường CPTPP có xu hướng tăng trưởng tích cực.
Theo số liệu của Bộ Công Thương, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và thị trường CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) năm 2024 đạt 102,1 tỷ USD, tăng 6,8% so với năm 2023. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2025 đạt gần 27,2 tỷ USD, tăng 22,6% so với cùng kỳ.
TỶ LỆ CẤP C/O TĂNG TRƯỞNG ẤN TƯỢNG TẠI CÁC THỊ TRƯỜNG MỚI
Tại tọa đàm “Tận dụng lợi thế xuất xứ trong CPTPP: Đòn bẩy tăng trưởng xuất khẩu trong bối cảnh chính sách thuế đối ứng”, bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương đã đưa ra những con số cụ thể về tỷ lệ cấp Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) mẫu CPTPP.
Năm 2019, ngay khi Hiệp định mới có hiệu lực, trị giá hàng hóa được cấp C/O và hưởng ưu đãi thuế quan là 0,7 tỷ USD, tương ứng khoảng 2% tổng kim ngạch xuất khẩu sang CPTPP. Đến năm 2024, con số này đã tăng lên gần 5 tỷ USD, tương đương với 8,8%.
Điều này cho thấy sự tăng trưởng rõ rệt về mặt con số cụ thể liên quan đến tỷ lệ cấp C/O trong chặng đường triển khai Hiệp định từ 2019 đến 2024.
Theo bà Hiền, tỷ lệ sử dụng C/O mẫu CPTPP có sự tăng trưởng đặc biệt tại những thị trường hoàn toàn mới với Việt Nam và có dành ưu đãi thuế quan theo Hiệp định, như Mexico và Canada.
Với thị trường Mexico, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu có C/O đã tăng vọt từ khoảng 7% năm 2019 lên đến 47% vào năm 2024. Đây là một "cái dốc khá cao".
Đối với các mặt hàng cụ thể, tỷ lệ kim ngạch được cấp C/O đi Mexico đối với thủy sản lên đến 70% - 80%, da giày cũng trên 80%.
Thị trường Canada tỷ lệ này cũng tăng từ khoảng 8% năm 2019 lên 17% - 18% vào năm 2024. Đối với Canada, các mặt hàng như vali, túi xách, mũ ô dù, thảm cói, mây tre đan... đạt khoảng 42% - 45% kim ngạch xuất khẩu có C/O mẫu CPTPP năm 2024, và thủy sản đạt khoảng 80%.
Bà Hiền nhận định: “Đối với những thị trường lần đầu tiên có FTA và có thuế quan ưu đãi dành cho Việt Nam, thì con số liên quan đến tỷ lệ cấp giấy chứng nhận xuất xứ hoặc là tỉ lệ sử dụng được những ưu đãi trong CPTPP khá cao”.
Theo thống kê của Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, tỷ lệ sử dụng C/O trong CPTPP có vẻ thấp hơn so với các hiệp định khác như UKVFTA (xuất khẩu sang Anh) hoặc EVFTA (xuất khẩu sang EU).
Lý giải về sự chênh lệch này, bà Hiền cho biết các thị trường như Anh (UKVFTA) hay EU (EVFTA) tương ứng với một FTA duy nhất. Nếu hàng hóa xuất khẩu sang các thị trường này không sử dụng FTA đó thì gần như không có được ưu đãi đặc biệt nào.
Ngược lại, trong khuôn khổ CPTPP, nhiều thành viên cùng với Việt Nam đã là thành viên của các FTA khác. Điều này dẫn đến sự "chia sẻ" về việc cấp C/O.
Trong khi đó, với thị trường Australia, Việt Nam và Australia vừa là thành viên của CPTPP, vừa là thành viên của Hiệp định ASEAN-Australia-Zealand (AANZFTA), và Hiệp định RCEP. Do đó, hàng hóa xuất khẩu sang Australia có thể lựa chọn theo ba chế độ thuế quan ưu đãi khác nhau, tương ứng với ba bộ quy tắc xuất xứ khác nhau.
Thị trường Nhật Bản là thị trường có tới bốn cơ hội để hưởng ưu đãi thuế quan, bao gồm Hiệp định ASEAN - Nhật Bản (AJCEP), Hiệp định Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA), Hiệp định RCEP và Hiệp định CPTPP.
Nếu chỉ nhìn vào con số C/O mẫu CPTPP cấp cho hàng hóa xuất khẩu sang Nhật Bản, tỷ lệ này khá thấp, chỉ khoảng 3%. Tuy nhiên, khi nhìn vào tổng thể, ưu đãi thuế quan còn nằm ở các hiệp định khác: C/O ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) khoảng 25%; C/O Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) khoảng 20%; C/O RCEP khoảng 5%; C/O CPTPP khoảng 5% (hoặc 3% tùy cách thống kê).
"Nếu chúng ta cộng tổng vào, hàng hóa xuất khẩu sang Nhật Bản hiện nay đang được hưởng ưu đãi thuế quan đến 50% tổng số kim ngạch. Như vậy, kết luận rằng hàng xuất khẩu sang Nhật Bản có tỷ lệ sử dụng ưu đãi thuế quan quá thấp chỉ vì nhìn vào con số C/O CPTPP là chưa đầy đủ", bà Hiền nhấn mạnh.
3 KHUYẾN NGHỊ QUAN TRỌNG ĐỂ DOANH NGHIỆP BIẾN THÁCH THỨC THÀNH CƠ HỘI
Để tận dụng tối đa lợi thế của Hiệp định CPTPP, bà Hiền đã đưa ra ba khuyến nghị chính cho cộng đồng doanh nghiệp.

Bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu.
Thứ nhất, thay đổi góc nhìn về quy tắc xuất xứ. Doanh nghiệp không nên coi quy tắc xuất xứ như một rào cản. Hãy nhìn đó là những tiêu chuẩn cần hướng tới, cần đáp ứng. Đồng thời coi đó là áp lực tạo động lực để thay đổi, giúp doanh nghiệp tiến gần hơn với các quy định chuẩn mực quốc tế. Nắm được quy tắc xuất xứ sẽ giúp doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp, đảm bảo hàng hóa được ưu đãi thuế quan, từ đó nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
Thứ hai, chuẩn bị hệ thống lưu trữ chứng từ bài bản. Việc có chứng từ chứng nhận xuất xứ khi xuất khẩu chưa phải là kết thúc. Cơ quan hải quan nước ngoài có thể yêu cầu kiểm tra, xác minh xuất xứ sau thông quan. Doanh nghiệp cần có hệ thống lưu trữ bài bản, chuẩn chỉnh (chứng từ cứng hoặc mềm). Hệ thống lưu trữ tốt sẽ giúp doanh nghiệp sẵn sàng chứng minh hàng hóa đáp ứng xuất xứ khi được yêu cầu, tránh ảnh hưởng đến quá trình hưởng ưu đãi thuế quan.
Thứ ba, quy tắc xuất xứ thực tế là bộ quy tắc để xác định xem hàng hóa đến từ đâu, đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ hay nhóm nước nào, để đảm bảo đúng hàng hóa có xuất xứ được hưởng ưu đãi thuế quan mà các nước dành cho nhau.
Chính vì vậy, doanh nghiệp nắm được quy tắc xuất xứ, nghĩa là chúng ta sẽ hiểu được cụ thể về việc chúng ta có kế hoạch sản xuất kinh doanh làm sao cho phù hợp, đáp ứng với quy định của nước nhập khẩu để hàng hóa của chúng ta khi xuất khẩu được ưu đãi thuế quan trong khuôn khổ đó.
Ví dụ: đôi bít tất dệt kim có xuất xứ được hưởng 18% tiền thuế chênh lệch, nhưng so với việc không có ưu đãi thuế quan và phải chịu 18% tiền thuế khi xuất khẩu sang Canada. Điều này rõ ràng cho thấy xuất xứ hàng hóa chính là công cụ để chúng ta nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.












