Sửa đổi Hiến pháp 2013 về không tổ chức chính quyền trung gian: Cuộc cải cách tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả

Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 là một trong những điểm nhấn quan trọng, đặt nền móng cho mô hình quản trị địa phương hiện đại.

Trao đổi với phóng viên Báo Hànôịmới, PGS.TS Tô Văn Hòa, Quyền Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội nhấn mạnh, kể từ bài viết “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả” của Tổng Bí thư Tô Lâm ngày 5- 11-2024, toàn hệ thống chính trị đã tiến hành cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy một cách hết sức khẩn trương.

Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 là một trong những điểm nhấn quan trọng, đặt nền móng cho mô hình quản trị địa phương hiện đại, góp phần cải thiện năng lực quản lý điều hành, giảm thiểu sự chồng chéo, lãng phí nguồn lực.

- Ông đánh giá thế nào về chủ trương thu gọn đầu mối, sắp xếp lại tổ chức bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống hành chính thể hiện trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013?

- Thời gian qua, những chủ trương của Đảng về việc tinh gọn, sắp xếp bộ máy đã được nhân dân, các cơ quan và Quốc hội đồng tình ủng hộ, đồng thời tổ chức triển khai thực hiện rất khẩn trương. Đây không những là một hướng đi đúng, mà còn là điều người dân mong đợi từ lâu. Bởi việc tinh gọn tổ chức bộ máy không chỉ nhằm tiết kiệm chi phí, mà điều quan trọng hơn cả là nâng cao hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước để đưa đất nước phát triển.

Để làm tốt các nhiệm vụ đó, đầu tiên phải có mô hình tổ chức bộ máy. Thứ hai, phải có hệ thống quy định pháp luật để bộ máy nhà nước và toàn dân thực hiện đồng nhất, đồng lòng.

PGS.TS Tô Văn Hòa, Quyền Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội. Ảnh: PV

PGS.TS Tô Văn Hòa, Quyền Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội. Ảnh: PV

Chính vì vậy, việc sửa đổi Hiến pháp với tư cách là một đạo luật cơ bản điều chỉnh những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, trong đó có cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính, hệ thống chính trị là việc bắt buộc phải làm. Trên cơ sở đó tiến hành những bước tiếp theo về tinh gọn bộ máy một cách toàn diện, đồng bộ và triệt để hơn trong thời gian tới, chuẩn bị cho đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên mới, vừa bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp.

Do các điều khoản của Hiến pháp có tính khái quát cao và tác động bao trùm hệ thống pháp luật, quy trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp thường được thực hiện theo thủ tục chặt chẽ với sự tham gia rộng rãi. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp đòi hỏi hết sức khẩn trương, song cũng phải được nghiên cứu kỹ, làm rõ những vấn đề nguyên lý, có cơ sở lý luận vững chắc. Các đề xuất sửa đổi, bổ sung không chỉ bó hẹp trong câu từ của Hiến pháp mà phải có tầm nhìn rộng hơn, xa hơn để làm rõ phương hướng, nội dung cần thể chế hóa trong các đạo luật có liên quan.

- Theo ông, nên có hướng sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp như thế nào để thực hiện chủ trương không tổ chức chính quyền trung gian (cấp huyện)?

- Việc tinh gọn bộ máy chính quyền địa phương theo hướng không tổ chức cấp huyện là bước đi quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương hoạt động chủ động và hiệu quả, phục vụ tốt nhất lợi ích của nhân dân. Việc không tiếp tục tổ chức cấp hành chính trung gian (cấp huyện) nếu được thực hiện tốt sẽ giúp giảm bớt sự cồng kềnh trong hệ thống hành chính nhà nước, đồng thời, tạo ra một mô hình hành chính địa phương tinh gọn, linh hoạt, phù hợp với yêu cầu phát triển trong bối cảnh hiện nay.

Nhìn chung, các sửa đổi, bổ sung quy định về chính quyền địa phương tại các điều của Hiến pháp năm 2013 cơ bản bảo đảm được tính chính trị, phù hợp với Cương lĩnh, đường lối chiến lược, chủ trương của Đảng; bảo đảm được tính dân chủ, tính pháp quyền; thể hiện tính thời đại, tính cách mạng và có sự kế thừa.

Song cũng cần nhấn mạnh rằng, việc không tổ chức cấp huyện trong hệ thống hành chính địa phương ở Việt Nam không chỉ đơn thuần là bãi bỏ đơn vị hành chính cấp huyện rồi sáp nhập các xã với nhau. Về thực chất, đây là việc chuyển từ cấu trúc 3 cấp sang cấu trúc 2 cấp chính quyền địa phương.

Để bảo đảm ổn định, thông suốt trong công tác hành chính ở địa phương, đặc biệt là dịch vụ công phục vụ nhân dân, chủ trương này đòi hỏi một cách tiếp cận toàn cảnh đối với hệ thống hành chính địa phương, đặt ra yêu cầu xem xét thiết kế tổng thể hệ thống hành chính lãnh thổ của Việt Nam.

Khi không tổ chức chính quyền trung gian (cấp huyện), dự kiến có 90/99 nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp huyện chuyển giao cho cấp xã. Ảnh: PV

Khi không tổ chức chính quyền trung gian (cấp huyện), dự kiến có 90/99 nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp huyện chuyển giao cho cấp xã. Ảnh: PV

- Từ chủ trương lớn của Đảng, Quốc hội sẽ quyết định thay đổi mô hình chính quyền địa phương từ 3 cấp sang 2 cấp. Làm thế nào để đây thực sự là cuộc cải cách thể chế và hành chính toàn diện mang tính kiến tạo sâu sắc, phản ánh tầm nhìn chiến lược và quyết tâm đổi mới để đất nước đủ điều kiện vững bước vào kỷ nguyên mới, thưa ông?

- Đây là thời điểm đặt ra yêu cầu rất cao về quản trị quốc gia, xây dựng mô hình chính quyền hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân, đồng thời hướng đến mục tiêu cải cách nền công vụ.

Có thể nói, nếu thực hiện tốt mô hình chính quyền địa phương từ 3 cấp sang 2 cấp, nhiệm vụ của cấp xã mới rất nặng. Qua rà soát, có 90/99 nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp huyện sẽ chuyển giao cho cấp xã; 9 nhiệm vụ, quyền hạn còn lại của cấp huyện sẽ chuyển cho cấp tỉnh khi tổ chức mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.

Điều đó có nghĩa, bỏ cấp huyện sẽ có nhiều đột phá đáng ghi nhận như chuyển từ tư duy quản lý hành chính sang quản trị, kiến tạo và phục vụ; từ phân công hành chính sang phân cấp, phân quyền, trao quyền rõ ràng, thực chất; từ bộ máy hành chính địa phương cồng kềnh, nhiều tầng nấc hệ thống hành chính địa phương tinh gọn với gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt hơn.

Từ việc giảm đầu mối, cũng sẽ là yếu tố cơ bản giúp giảm về thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp, thời gian giải quyết cũng nhanh hơn. Điều này đòi hỏi trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở, phải được nâng lên cả về tri thức, kỹ năng với thái độ phục vụ nhân dân hoàn toàn mới, đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước hiện nay. Cùng với đó, hệ thống pháp luật cần được sửa đổi toàn diện, đồng bộ.

- Theo ông, làm sao để bảo đảm cơ chế kiểm soát quyền lực trong mô hình hai cấp mà vẫn giữ được sự linh hoạt, hiệu lực và hiệu quả?

- Như tôi đã phân tích, chúng ta sẽ bỏ cấp trung gian, phân cấp mạnh mẽ, phân quyền triệt để hơn cho chính quyền cơ sở. Như vậy, chính quyền các cấp đều bình đẳng trước pháp luật, tự chủ quyết định các công việc thuộc thẩm quyền, chức năng được giao theo đúng Hiến pháp và pháp luật.

Với quy định hiện hành, việc bảo đảm giám sát quyền lực ấy của chính quyền địa phương sẽ được thực hiện thông qua cơ chế tổ chức chính quyền địa phương gồm HĐND, UBND, cho dù là hai cấp với ba cấp vẫn vậy. Do đó, giám sát của cơ quan đại diện ở địa phương, tức là HĐND đối với UBND và các cơ quan trực thuộc UBND cũng vẫn sẽ được bảo đảm.

Thứ nữa, trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương theo ngành dọc, cũng như trong nội bộ của hệ thống này, luôn tồn tại cơ chế kiểm soát quyền lực từ cấp trên đối với cấp dưới thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra. Bên cạnh đó, còn có cơ chế kiểm soát thông qua hệ thống cơ quan kiểm tra của Đảng. Cơ quan hành chính nhà nước cũng phải chịu cơ chế kiểm soát quyền lực từ tòa án; thủ tục khiếu nại hành chính; tố cáo hành chính.

Một kênh thông tin nữa để nắm chắc tình hình nhân dân, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” là qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Bên cạnh đó, địa phương cần tạo điều kiện thuận lợi để báo chí, các cơ quan công luận hoạt động. Đây được xem là một trong những cơ quan có vai trò quan trọng trong thực hiện hoạt động giám sát và phản biện xã hội đối với công tác quản lý của bộ máy chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức.

- Ở cấp tỉnh, khi phân chia đơn vị hành chính (ĐVHC) cần triển khai như thế nào để vừa bảo đảm quyền lực nhà nước có hiệu lực trên toàn lãnh thổ, mặt khác phát huy được vai trò của chính quyền địa phương, giúp chính quyền gần dân hơn, thưa ông?

- Trong quản trị hành chính địa phương hiện đại, lãnh thổ quốc gia thường được Nhà nước phân chia thành các ĐVHC và các ĐVHC chuyên biệt sao cho mỗi mét vuông đều phải được quản lý và có chủ quyền quốc gia. Song, không phải mỗi mét vuông đều được quản lý theo cơ chế giống hệt nhau mà có sự khác biệt phù hợp với điều kiện tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội của nơi đó.

Khi phân chia ĐVHC, tôi cho rằng, tại các ĐVHC, do có dân cư sinh sống thường xuyên, tập trung nên có đủ điều kiện để thiết lập chính quyền địa phương đầy đủ. Chính quyền địa phương tại những đơn vị này bao gồm cơ quan đại diện của nhân dân địa phương (HĐND) quyết định các vấn đề ở địa phương và cơ quan chấp hành của nó (UBND) thực hiện quản lý hành chính nhà nước, phục vụ đời sống nhân dân.

Còn tại ĐVHC chuyên biệt, Nhà nước chỉ thiết lập các cơ quan quản lý hành chính chuyên trách trên những lĩnh vực phù hợp với đặc điểm của từng địa bàn.

Tôi lấy ví dụ, tại địa bàn là nơi có rừng, cơ quan quản lý tập trung vào nhiệm vụ bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ tài nguyên; còn tại vùng núi thì tập trung vào việc bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ tài nguyên. Tại những địa bàn loại này không hình thành chính quyền địa phương đầy đủ; tuy nhiên, chủ quyền quốc gia vẫn được thể hiện thông qua hoạt động quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước, có thể do chính quyền địa phương cấp trên đảm nhiệm hoặc do cơ quan trung ương trực tiếp quản lý.

Khi vận dụng những nguyên lý trên vào việc tổ chức hệ thống hành chính địa phương ở Việt Nam, có thể xác định về phương diện đơn vị hành chính sẽ có hai cấp: Cấp tỉnh, bao gồm các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương; cấp cơ sở (dưới cấp tỉnh, có thể gọi là “cấp xã” hay “cấp cơ sở”), bao gồm các đơn vị hành chính gần dân nhất, tức là các xã và các khu vực đô thị tập trung (có thể gọi là thành phố, được phân loại thành các nhóm tùy theo quy mô và trình độ phát triển).

- Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi!

Hà Phong thực hiện

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/sua-doi-hien-phap-2013-ve-khong-to-chuc-chinh-quyen-trung-gian-cuoc-cai-cach-tinh-gon-hieu-luc-va-hieu-qua-703143.html