Lịch sử phát triển của súng trường có hộp tiếp đạn 5 viên bên trong, được bắt đầu sau Chiến tranh Nga - Ottoman (1877-1878). Trong cuộc chiến kéo dài mười tháng, với chiến thắng cuối cùng thuộc về Nga.
Quân đội Nga đã truy kích quân Thổ gần như đến tận cổng của thành phố Constantinople; tuy nhiên quân Nga lúc này được trang bị chủ yếu bằng súng trường bắn một phát Berdan. Còn Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ được trang bị súng trường Winchester có thể bắn liên tục; kết quả là quân Nga bị thương vong nặng nề.
Sau cuộc chiến tranh Nga – Thổ, yêu cầu đặt ra là Quân đội Nga rất cần một khẩu súng trường mới, và Bộ Quốc phòng Nga bắt đầu đánh giá các loại súng trường do nước ngoài sản xuất, đặc biệt nhất là khẩu Lebel M1886 do Pháp sản xuất. Quân đội Nga sau đó đã xem xét các thiết kế mới, và hai thiết kế dường như cho thấy sự hứa hẹn.
Đầu tiên là thiết kế “cỡ nòng 0.3 inch” (cỡ nòng .30 hoặc 7,62mm) của Đại úy Sergi Ivanovich Mosin của Quân đội Đế quốc Nga; trong khi nhà thiết kế ô-tô và vũ khí người Bỉ Léon Nagant đã đệ trình thiết kế thứ hai cho “cỡ nòng 0.35 inch” (Cỡ nòng .35 hoặc 9mm).
Quân đội Nga có thể đã thể hiện một số “ưu ái” đối với thiết kế của Đại úy Mosin, nhưng khi họ quyết định mẫu súng trường mới, thì lại lấy những thiết kế nổi bật của cả hai khẩu; dẫn đến sau này gọi chung là súng trường Mosin-Nagant.
Tuy nhiên, điều đó không phù hợp với Nagant, người đã đệ đơn kiện bằng sáng chế, và những lời phản bác được Quân đội Nga đưa ra rằng, nhà sản xuất Bỉ đã mượn các yếu tố từ thiết kế của khẩu Mosin.
Nhưng một vấn đề đặt ra là Mosin, với tư cách là một sĩ quan Quân đội Bạch vệ Nga, nên không thể đăng ký bằng sáng chế, và thiết kế của ông thuộc sở hữu của chính phủ và thuộc vào “bí mật quân sự”.
Cuối cùng, Quân đội Nga đã trả cho Nagant số tiền 200.000 rúp Nga, và điều đó đã giải quyết xong vấn đề. Léon Nagant và anh trai Émile vẫn là nhà thầu chính cho chính phủ Nga, và khẩu súng ngắn Nagant M95 thậm chí còn trở thành vũ khí phụ tiêu chuẩn của Quân đội Nga.
Mặc dù thực tế là khẩu súng trường Mosin-Nagant được sử dụng rộng rãi ngày nay, nhưng khẩu súng này chưa bao giờ được biết đến nhiều như vậy ở Đế quốc Nga hay Liên Xô sau này.
Để giúp giải quyết các vấn đề với người đồng bản quyền Nagant, khẩu súng trường này thậm chí còn được chỉ định với tên là súng trường M1891. Chỉ từ năm 1924, dưới thời Liên Xô, khẩu súng trường này mới có tên chính thức là “Súng trường Mosin”.
Súng trường Mosin-Nagant được biết đến rộng rãi với tên gọi M1891, và phiên bản đó lần đầu tiên được sử dụng với Quân đội Đế quốc Nga trong Chiến tranh Nga-Nhật (1905); mặc dù có một số thông tin rằng, một số súng loại này, có thể đã được du kích Philippines sử dụng trong Cách mạng Philippines (1896-1898).
Các phiên bản ban đầu của Nga sử dụng loại đạn 7,62x54 mm của Nga, mà sau này được Liên Xô và các quốc gia thuộc Khối Hiệp ước Warsaw sử dụng trong các loại súng trường và súng máy.
Súng trường Mosin-Nagant sử dụng hộp tiếp đạn 5 viên, nhưng hộp tiếp đạn không thể tháo rời khỏi súng; tầm bắn hiệu quả của súng là 500 mét. Súng sử dụng khóa nòng khóa then ngang, lên đạn lại sau mỗi phát bắn.
Mặc dù được gia tăng sản xuất, nhưng súng trường Mosin-Nagant không thể đáp ứng yêu cầu của Quân đội Nga trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Do vậy chính phủ của Sa hoàng Nicholas II đã ký hợp đồng với công ty Remington Arms và New England Westinghouse của Mỹ để sản xuất khẩu súng này tại Mỹ với số lượng 1,5 triệu khẩu.
Khoảng 470.000 khẩu Mosin-Nagant đã được các công ty Mỹ chuyển giao, nhưng sau đó Cách mạng Tháng Mười dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ Nga Sa hoàng và chế độ Bolshevik mới dưới thời Vladimir Lenin đã từ chối trả tiền mua vũ khí.
Do đó thêm 280.000 khẩu Mosin-Nagant sau đó đã được bán lại cho Quân đội Mỹ, để giúp công ty Remington và Westinghouse không bị phá sản; và trớ trêu thay, nhiều khẩu Mosin-Nagant được quân đội Mỹ và Anh sử dụng trong chiến dịch 18 nước đế quốc chống lại chính quyền bản địa thân Bolshevik.
Năm 1930, khẩu Mosin-Nagant được cải tiến với chiều dài được rút ngắn lại và mẫu 1891/30 trở thành biến thể được sản xuất nhiều nhất; đây là súng trường tiêu chuẩn của bộ binh Liên Xô từ năm 1930 đến năm 1945 và được sử dụng trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trung Quốc đã sản xuất súng trường Mosin-Nagant theo mẫu 1891/30 của Liên Xô và có tên Type 44; loại súng trường này, được Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam trong Kháng chiến chống Pháp và được gọi là súng trường K44 hoặc súng trường báng đỏ. Nguồn ảnh: WarArchive.
Cận cảnh sức mạnh và độ giật của súng trường Mosin Nagant lên đạn viên một. Nguồn: Gun of the World.
Tiến Minh