Tâm tư trên những vùng chè (bài 3): Nâng tầm giá trị cho chè xứ Thanh

So với nhiều cây trồng, cây chè mang lại hiệu quả kinh tế cao và lâu dài. Dẫu vậy, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cho thứ cây 'uống nước' tốt cho sức khỏe này.

Câu chuyện đầu ra cho sản phẩm vẫn là mối bận tâm của các vùng trồng chè lớn trên địa bàn tỉnh.

Câu chuyện đầu ra cho sản phẩm vẫn là mối bận tâm của các vùng trồng chè lớn trên địa bàn tỉnh.

Ở tuổi 69, lão nông Nguyễn Văn Vũ, thôn Thanh Vân, xã Cát Tân (Như Xuân) đã có “thâm niên” gắn bó với cây chè hơn 50 năm. Vốn quê huyện Quảng Xương, năm 1963 gia đình ông lên định cư ở vùng đất Như Xuân, đến năm 1971, bắt đầu trồng chè. Ông Nguyễn Văn Vũ kể lại: "Ban đầu, diện tích chè của gia đình tôi chỉ vài sào, rồi từng bước được mở rộng thêm. Đặc biệt là cuối những năm 80, đầu những năm 90 thì cây chè chiếm lĩnh đồi đất Như Xuân. Chè khi đó được trồng, thu hái bán lá (chè xanh) và hái búp để sao chè (chè búp khô). Ngày ấy, ở Như Xuân có chợ Cát Vân khá lớn, bán nhiều hàng hóa, trong đó nhiều nhất là các sản phẩm về chè. Lúc bấy giờ, dù điều kiện kinh tế nói chung còn nhiều khó khăn nhưng cây chè đã mang lại cho người trồng sự no đủ”.

Tuy nhiên, sang từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, khi cây cao su, cà phê xuất hiện với những “hứa hẹn” về hiệu quả kinh tế cao thì cũng là lúc những đồi chè cũng dần “biến mất”. Vì nhiều nguyên do, sau đó chỉ vài năm ngắn ngủi, cây cà phê cũng bị chặt phá..., chỉ còn lại cây cao su. Qua thời gian, diện tích chè ở Như Xuân nói chung, Cát Tân nói riêng ngày càng ít. Hiện tại, dù là một trong những hộ có diện tích chè nhiều nhất ở Cát Tân song gia đình ông Nguyễn Văn Vũ cũng chỉ có hơn 1ha. Còn lại phần lớn chè được trồng rải rác ở các vườn hộ với diện tích nhỏ.

Được công nhận sản phẩm OCOP, song đầu ra cho sản phẩm chè của người dân Cát Tân (Như Xuân) vẫn còn nhiều khó khăn.

Được công nhận sản phẩm OCOP, song đầu ra cho sản phẩm chè của người dân Cát Tân (Như Xuân) vẫn còn nhiều khó khăn.

Trên địa bàn xã Cát Tân hiện nay có hơn 32ha chè, tập trung chủ yếu ở thôn Thanh Vân. Trong đó, diện tích chè giống mới khoảng 10ha, còn lại là giống chè cũ. Cây chè có nhiều lúc thăng, trầm nên người dân còn khá e ngại trong việc mở rộng diện tích. Bên cạnh đó, việc đầu tư cho cây chè hiện nay cũng tốn khá nhiều chi phí, trung bình khoảng 70 triệu đồng/ha, trong khi đó giá bán không ổn định. Bà Hoàng Thị Lương, Chủ tịch UBND xã Cát Tân, cho biết: "Những năm gần đây, việc khôi phục cây chè được quan tâm nhiều hơn, song nhìn vào thực tế, giá chè nguyên liệu hiện nay thực sự rất bấp bênh. Chè bán lá (chè xanh) nhiều lúc không bán được, dù giá rẻ. Chè búp (chè khô) đầu ra cũng không ổn định, giá chưa cao. Trong khi việc thu hái, chế biến chè thủ công, cần nhiều lao động. Vì vậy, việc người dân chưa thực sự mặn mà với cây chè cũng là điều dễ hiểu. Cùng với việc quy hoạch vùng nguyên liệu thì câu chuyện đầu ra sản phẩm, xây dựng nhà máy chế biến là vấn đề cần được quan tâm".

Năm 2022, với tâm huyết phát triển cây chè, lão nông Nguyễn Văn Vũ thành lập HTX dịch vụ nông nghiệp và sản xuất chè hữu cơ Thanh Vân với 31 hộ tham gia. Năm 2024, sản lượng chè của HTX hơn 4 tấn, chủ yếu tiêu thụ trong và ngoài huyện. Giám đốc HTX dịch vụ nông nghiệp và sản xuất chè hữu cơ Thanh Vân thẳng thắn nhìn nhận: “Thực tế, so với nhiều loại chè trên thị trường, chè Thanh Vân có chất lượng và mẫu mã chưa cao, dẫn đến giá thấp. Bên cạnh đó, nhiều người dân vẫn còn tâm lý “mạnh ai nấy làm”, chưa tạo được sự liên kết. Trong xu hướng hiện nay, việc canh tác, chế biến chè ngoài kinh nghiệm thì đòi hỏi nhiều yêu cầu về kỹ thuật, nếu không học hỏi rất khó nắm bắt...".

Câu chuyện đầu ra cho sản phẩm là mối bận tâm của nhà sản xuất, doanh nghiệp. Anh Trịnh Đình Huy, chủ hộ sản xuất và chế biến chè ở xã Bình Sơn (Triệu Sơn), cho biết: “Trước đây, chè của gia đình tôi sản xuất chủ yếu bán qua các kênh phân phối truyền thống, phải đi chào hàng các đại lý. Hiện nay, thông qua các nền tảng mạng xã hội và sàn thương mại điện tử, việc phân phối sản phẩm chè đến tay người tiêu dùng đã thuận lợi hơn. Năm 2024, 50% sản lượng chè búp khô của gia đình tôi bán được là nhờ qua các kênh này. Đầu năm 2025, gia đình đã đầu tư hơn 200 triệu đồng cho việc xây dựng nhà xưởng và máy móc. Dự định thời gian tới, chúng tôi sẽ thành lập HTX, kêu gọi một số hộ dân cùng tham gia. Khi các hộ sản xuất, chế biến cùng bắt tay, sẽ tạo sức mạnh, nâng cao uy tín cho thương hiệu chè Bình Sơn”.

Việc chăm sóc, thu hái chè phải đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật.

Việc chăm sóc, thu hái chè phải đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật.

Là một trong những người đi đầu trong xây dựng thương hiệu sản phẩm chè ở Bình Sơn, ông Lê Đình Tú, Giám đốc HTX dịch vụ nông lâm nghiệp Bình Sơn, cho biết: “HTX hiện có hơn 30 hộ tham gia đồng thời còn liên kết sản xuất với 90 hộ. Điều này, giúp các hộ trồng chè chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc, chế biến và tháo gỡ khó khăn, cùng nhau tìm đầu ra cho sản phẩm tốt hơn. Để cây chè Bình Sơn phát triển hơn nữa thì không chỉ là vấn đề thay mới giống mà còn cần bảo đảm nguồn nước tưới. Tôi vẫn thường chia sẻ với các hộ trồng chè, rằng chúng ta đã cố gắng nỗ lực rất nhiều, tuy nhiên hãy đến, hãy đi tham quan những địa phương trồng chè lớn ở ngoài tỉnh, để biết mình đang thiếu và yếu ở đâu. Có như vậy mới mong thay đổi và phát triển hơn nữa".

Ông Nguyễn Lê Khương, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Triệu Sơn, cho biết thêm: “Hiện nay, quy trình chăm sóc và thu hái chè của nhiều hộ dân nói chung vẫn chưa thực sự đạt yêu cầu về kỹ thuật. Hạn chế về giống, kỹ thuật chế biến (mẫu mã, thành phẩm) cũng khiến cho chất lượng chè chưa thực sự cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào chế biến chè cũng còn hạn chế. Và một trong những điểm yếu là chúng ta chưa xây dựng được những thương hiệu đủ mạnh, đủ sức nhận diện để có chỗ đứng vững trên thị trường... Muốn vươn tầm các sản phẩm chè xứ Thanh, cần phải thay đổi để có lời giải cho những vấn đề đặt ra”.

Bài và ảnh: Thu Trang

Nguồn Thanh Hóa: https://vhds.baothanhhoa.vn/tam-tu-tren-nhung-vung-che-bai-3-nang-tam-gia-tri-cho-che-xu-thanh-35959.htm