Tân Trào - 'Thủ đô' Khu giải phóng

Đến thăm Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân Trào (tỉnh Tuyên Quang), nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng làm việc trong những ngày chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, chúng tôi thấy tại các di tích (như: Lán Nà Nưa (Nà Lừa), lán Hang Bòng, cây đa và đình Tân Trào, đình Hồng Thái...) có rất nhiều du khách tham quan, tìm hiểu vì sao Bác Hồ chọn Tân Trào làm 'Thủ đô' Khu giải phóng.

Địa thế chiến lược, “thế trận lòng dân” vững chắc

Vì sao Bác Hồ chọn Tân Trào làm “Thủ đô” Khu giải phóng? Chúng tôi tìm gặp đồng chí Nguyễn Văn Hòa, Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang để được giới thiệu cặn kẽ hơn. Anh Hòa cho biết: Chọn Tân Trào làm “Thủ đô" Khu giải phóng thể hiện thiên tài quân sự của lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Trung ương Đảng, bởi Tân Trào hội tụ các yếu tố: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Tháng 5-1945, trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình và yêu cầu cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định rời Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào, Sơn Dương (Tuyên Quang).

 Đình Tân Trào (nơi diễn ra Quốc dân Đại hội, tháng 8-1945) thu hút nhiều du khách tham quan.

Đình Tân Trào (nơi diễn ra Quốc dân Đại hội, tháng 8-1945) thu hút nhiều du khách tham quan.

Trong kháng chiến, Tân Trào có địa giới tiếp giáp với các xã thuộc 6 huyện, 3 tỉnh giữa lòng Việt Bắc; là nơi “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”, từ đây có thể dễ dàng lui về Bắc Kạn, Cao Bằng, Thái Nguyên, sang Yên Bái, lên Hà Giang. Khi Nam tiến cũng dễ dàng mở rộng sang Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc; xuống Hà Nội hoặc lên Hòa Bình và về các tỉnh đồng bằng thuận lợi. Ngoài ra, do đặc điểm của địa hình, nơi đây đồi núi chiếm 90% diện tích và được che phủ bởi thảm thực vật nhiệt đới đa dạng, phong phú; vây quanh từng thôn, xóm, bản, làng là những dãy núi đá vách dựng đứng nối liền nhau như những bức tường thành kiên cố, có nhiều hang động, tạo thành phòng tuyến tự nhiên...

Đồng chí Nguyễn Văn Hòa bày tỏ rất tâm đắc: Yếu tố đặc biệt quan trọng để lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định chọn Tân Trào chính là “thế trận lòng dân” tại đây. Trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, nhân dân Tân Trào đã "kề vai sát cánh" cùng nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Giữa năm 1884, thực dân Pháp đánh chiếm Tuyên Quang, người dân nơi đây liên tiếp nổi dậy đấu tranh chống lại sự thống trị hà khắc của thực dân Pháp và tay sai; các cơ sở cách mạng, các phong trào quần chúng đã được xây dựng ở khắp nơi trên đất Tuyên Quang, trong đó có khu vực Tân Trào.

Trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, tháng 2-1944, Trung ương Đảng cử đồng chí Hoàng Quốc Việt lên kiểm tra tình hình vùng Tân Trào-núi Hồng để xây dựng căn cứ cách mạng. Tại khu căn cứ Tân Trào, lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang được củng cố, tập dượt chuẩn bị cho khởi nghĩa. Lòng dân Tuyên Quang nói chung và Tân Trào nói riêng luôn sắt son theo Đảng, theo cách mạng; nhân dân Tân Trào đoàn kết cùng nhân dân trong tỉnh hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử, một lòng một dạ giữ bí mật, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ an toàn lãnh tụ và Trung ương Đảng. Đây là căn cứ địa vững chắc của cách mạng, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Đại tá, PGS, TS Trần Ngọc Long, nguyên Phó viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự (nay là Viện Chiến lược và Lịch sử quốc phòng Việt Nam) là người có nhiều đề tài, tham luận nghiên cứu về hoạt động của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khẳng định: Cuối tháng 6-1945, quân Nhật tập trung một lực lượng lớn mở cuộc tiến công vào Tân Trào.

Trong bối cảnh lực lượng không cân sức, có đồng chí đề nghị chuyển "đại bản doanh" của Bác vào sâu trong rừng để bảo đảm an toàn, nhưng Bác không nhất trí vì Bác tin vào sức mạnh của đồng bào ở đây; có dân, biết dựa vào dân thì không một kẻ thù nào có thể phá nổi. Chấp hành chỉ thị của Bác, lực lượng Giải phóng quân làm nòng cốt cho quần chúng nhân dân kịp thời triển khai thế trận, tổ chức chiến đấu bẻ gãy cuộc tiến công của quân Nhật, bảo vệ an toàn "Thủ đô" Khu giải phóng.

Yếu tố không thể thiếu để chọn Tân Trào làm căn cứ địa cách mạng chính là công tác bảo đảm tại chỗ. Khu vực này có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số định cư, họ sống không tách biệt, thường xen cư, hình thành từng bản, làng trong các thung lũng, trên các triền núi, nơi có nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Đồng bào tự sản xuất lương thực và chăn nuôi gia súc, có thể bảo đảm nhu cầu kinh tế, hậu cần tại chỗ cho căn cứ cách mạng. Thực tế trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, nhân dân Tân Trào đã đóng góp nhiều sức người, sức của cho cách mạng.

Những quyết sách lịch sử ở Tân Trào

Sau gần 3 tuần luồn rừng, trèo đèo, lội suối, chiều 21-5-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Trung ương Đảng từ Pác Bó về đến Tân Trào, tiếp tục chỉ đạo phong trào cách mạng. Từ tháng 5 đến tháng 8-1945, tại trung tâm Tân Trào, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng lãnh đạo gấp rút chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Tại Tân Trào, ngày 4-6-1945, Tổng bộ Việt Minh tuyên bố chính thức thành lập Khu giải phóng, lấy Tân Trào làm thủ đô, đặt dưới sự chỉ đạo của Ủy ban Kháng chiến lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh đứng đầu; đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Ủy viên Thường trực, đồng thời chỉ huy về quân sự. Cuối tháng 7-1945, trong lúc đang ốm nặng, Bác căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Một trong những quyết sách lịch sử tại Tân Trào đó là Hội nghị toàn quốc của Đảng (từ ngày 13 đến 15-8-1945) đã quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hội nghị có tính chất như một đại hội, ra nghị quyết về nhiệm vụ cách mạng. Từ trung tâm Tân Trào, lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền truyền đi và các tỉnh, thành phố trong cả nước đã lần lượt đứng lên khởi nghĩa: Bắt đầu từ Tuyên Quang giành thắng lợi ngày 17-8, rồi đến Hà Nội (19-8), Thái Nguyên (20-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8)...

Đặc biệt, ngày 16 và 17-8-1945, Quốc dân Đại hội được tổ chức tại đình Tân Trào, gồm đại biểu đến từ khắp mọi miền đất nước, đại biểu các đảng phái chính trị, các đoàn thể nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, nhân sĩ trí thức. Đại hội quyết định toàn dân đứng lên vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền, bầu ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, thông qua “Mười chính sách lớn của Việt Minh”, trong đó nội dung quan trọng nhất là giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập.

Theo Đại tá, PGS, TS Trần Ngọc Long, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào đã tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, cho sự hình thành một chính phủ lâm thời ngay sau khi cách mạng thành công. Đó là sự tiên lượng và chuẩn bị một bước cho việc xây dựng một nhà nước kiểu mới.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trước khi rời Tân Trào về xuôi, Bác căn dặn các đồng chí Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Thái cùng những cán bộ được giao nhiệm vụ tiếp tục ở lại giúp đỡ đồng bào địa phương, củng cố căn cứ địa: "Biết đâu chúng ta còn trở lên đây nhờ cậy đồng bào lần nữa...". Ngày 22-8-1945, Người chia tay "Thủ đô" Khu giải phóng trở về Hà Nội, khép lại 92 ngày đêm đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với đồng bào các dân tộc ở Tân Trào nói riêng và tỉnh Tuyên Quang nói chung.

Bài và ảnh: SƠN BÌNH - NGỌC HÂN

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/80-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9/tan-trao-thu-do-khu-giai-phong-843931