Tăng quyền cho hiệu trưởng để mở rộng tự chủ đại học
Trung tướng, GS-TS. Nguyễn Xuân Yêm cho rằng, mô hình Bí thư Đảng ủy kiêm Hiệu trưởng sẽ giúp người đứng đầu cơ sở đào tạo đại học quyết định sự đổi mới và thành công của giáo dục và đào tạo.

Tọa đàm "Tự chủ đại học - Cơ hội nào để phát triển?" do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức chiều 11/7.
Tốc độ thực hiện tự chủ đại học đang “hơi chậm”
Tự chủ đại học không còn là một ý tưởng mới, mà đã trở thành một chủ trương lớn, được định hình rõ trong các văn bản pháp lý suốt hơn một thập kỷ qua.
Nghị quyết số 29-NQ/TW năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã xác định rõ định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó "tự chủ đại học" là một quyết định quan trọng, mang tính đột phá mang tính thời đại.
Năm 2014, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết 77 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập. Từ đây, khái niệm "tự chủ đại học" chính thức bước vào giai đoạn mới, triển khai các chủ trương trên thực tế, trở thành một động lực để thúc đẩy phát triển hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Tuy nhiên, theo PGS-TS. Lưu Bích Ngọc, Chánh Văn phòng Hội đồng quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, từ đó đến nay, tốc độ thực hiện tự chủ đại học “hơi chậm” so với mong muốn của Đảng, Nhà nước và xã hội.
Phân tích các nguyên nhân tại Tọa đàm “Tự chủ đại học - Cơ hội nào để phát triển?” do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức ngày 11/7, bà Ngọc cho rằng, trước tiên do xã hội và các cơ sở giáo dục đại học hiểu chưa đúng về tự chủ đại học. Nhà nước ban hành chủ trương chính sách tăng cường tự chủ đại học, nhưng lại cắt đầu tư ngân sách, khiến cho tự chủ đại học đồng nghĩa với các cơ sở giáo dục phải tự lo.
Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng mâu thuẫn trong điều hành, quản lý. Các cơ sở giáo dục đại học hiện nay còn sự chồng lấn giữa hội đồng trường, đảng ủy và ban giám hiệu nhà trường, dẫn đến sự không hiệu quả trong điều hành nội bộ của các cơ sở giáo dục đại học.
Ngoài ra, cơ chế tự chủ chưa thực sự mở. Khi tự chủ, các cơ sở giáo dục đại học vẫn phải tuân thủ theo các hệ thống, văn bản pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên giữa các luật này chưa có sự thống nhất, đồng bộ.
“Sự thiếu đồng bộ về cơ chế đã khiến các cơ sở giáo dục đại học ‘bó chân, bó tay’ khi thực hiện tự chủ”, bà Ngọc phân tích.
Chia sẻ góc nhìn của một trong những mô hình giáo dục đại học hiếm hoi tự chủ toàn diện suốt hơn 30 năm qua là Trường Quản trị và Kinh doanh (HSB) - Đại học Quốc gia Hà Nội, PGS-TS. Hoàng Đình Phi, Hiệu trưởng HSB cho biết, hành trình tự chủ hoàn toàn của một trường đại học công lập tại Việt Nam đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng và cái giá phải trả không hề nhỏ. Đến nay, Trường đã đạt chứng nhận kiểm định châu Âu cho 6 chương trình cử nhân, 3 chương trình thạc sĩ và một chương trình tiến sĩ, đồng thời xây dựng một trường phái học thuật về quản trị và an ninh có uy tín quốc gia và quốc tế.
Thành tựu này đến từ việc phát triển một mô hình đào tạo sáng tạo, kết hợp nghiên cứu liên ngành, giảng dạy theo các chương trình liên ngành mới, và chuyển giao tri thức cho các tổ chức, doanh nghiệp. Mô hình này tạo thành một chu trình khép kín, mang lại giá trị bền vững cho giáo dục và xã hội.
Cần tăng quyền cho hiệu trưởng
Theo Trung tướng, GS-TS. Nguyễn Xuân Yêm, Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống, Trường Quản trị và Kinh doanh - Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân, muốn đổi mới giáo dục đào tạo, coi đây là đột phá thì phải tăng quyền cho hiệu trưởng. “Tất cả đổi mới của nhà trường phải bắt đầu từ thầy giáo, đặc biệt là hiệu trưởng, người quyết định sự đổi mới và thành công của giáo dục và đào tạo”, ông Yêm nói.
Theo ông Yêm, các trường công lập đều có Ban chấp hành Đảng ủy thì không nên thành lập Hội đồng trường. “Ở Trường Quản trị và Kinh doanh, thầy Hoàng Đình Phi là Bí thư Đảng ủy kiêm Hiệu trưởng. Trước đây, tôi cũng là Bí thư Đảng ủy kiêm Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân. Mô hình này có cơ chế tạo cho Hiệu trưởng quyết định tất cả những công việc mà Nhà nước đã giao cho mình trong khuôn khổ pháp luật”, ông Yêm dẫn chứng.
Ngoài ra, theo GS-TS. Nguyễn Xuân Yêm, cần phải tăng cường nguồn lực, dành nguồn ngân sách thỏa đáng, trong điều kiện có thể của Việt Nam, cho giáo dục và đào tạo. Đồng thời, phải mở rộng hợp tác quốc tế để đầu tư cơ sở vật chất hiện đại, sinh viên tốt nghiệp có cơ hội làm việc trong môi trường toàn cầu.

Trung tướng, GS-TS. Nguyễn Xuân Yêm, Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống, Trường Quản trị và Kinh doanh - Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân.
PGS-TS. Lưu Bích Ngọc cũng lưu ý, tự chủ không phải là buông lỏng quản lý. Nếu như trước đây, Nhà nước cho phép các cơ sở giáo dục đại học công lập được tự chủ, nhưng luôn có các cơ chế giám sát từ tiền kiểm đến hậu kiểm.
Xu thế hiện nay và trong tương lai là sẽ tăng cường công tác hậu kiểm, Nhà nước đóng vai trò "kiến tạo", ban hành các chính sách về các quy chuẩn chung như chuẩn cơ sở giáo dục đại học, chuẩn chương trình đào tạo và chuẩn đầu ra.
Bên cạnh đó, phải thúc đẩy, xây dựng văn hóa đảm bảo chất lượng từ bên trong, cũng như tạo ra các mô hình quản trị mới trong các cơ sở giáo dục đại học công lập. Song song với đó, cần đẩy mạnh trách nhiệm giải trình và tăng cường sự giám sát của Nhà nước, của xã hội và người học đối với tất cả các hoạt động vận hành của cơ sở giáo dục đại học công lập.
Tất cả những tư tưởng này đang được chuyển hóa vào Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi), dự kiến trình Quốc hội xem xét thông qua vào kỳ họp tháng 10/2025, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho giai đoạn phát triển mới.
Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/tang-quyen-cho-hieu-truong-de-mo-rong-tu-chu-dai-hoc-d328419.html