Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ công tác tư pháp trong Quân đội
Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, công tác tư pháp giữ vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Đối với Quân đội nhân dân Việt Nam - lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, công tác tư pháp trở thành một trong những trụ cột quan trọng hàng đầu để giữ nghiêm kỷ luật, củng cố sức mạnh chiến đấu, bảo đảm Quân đội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Trong nhiệm kỳ 2020-2025, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Nghị quyết số 67/NQ-ĐUQSTW ngày 8-3-2007 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) về lãnh đạo thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong Quân đội, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, công tác tư pháp trong Quân đội đã có bước phát triển quan trọng, đạt được nhiều kết quả nổi bật, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng, củng cố kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm an ninh, trật tự trong toàn quân, góp phần tạo chuyển biến tích cực về chất lượng xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Bộ Quốc phòng đã tham mưu và tham gia soạn thảo nhiều dự thảo luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư; đồng thời đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định không còn phù hợp, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất; ban hành và triển khai hiệu quả Đề án “Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống cơ quan tư pháp, thanh tra, pháp chế, kiểm toán, phòng, chống tội phạm trong Quân đội đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”. Nhiều quy định quan trọng về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quản lý tài sản, thu nhập của cán bộ, chiến sĩ được các cơ quan, đơn vị quán triệt và thực hiện nghiêm túc, gắn với Quy định số 131-QĐ/TW ngày 27-10-2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán; Quy định số 132-QĐ/TW ngày 27-10-2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Phiên xét xử của Tòa án Quân sự Quân khu 7. Ảnh minh họa: qdnd.vn
Song song với công tác hoàn thiện thể chế, tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp trong Quân đội cũng được kiện toàn, từng bước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Hệ thống cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án quân sự, cơ quan thi hành án các cấp được củng cố, sắp xếp hợp lý, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và tình hình mới. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tư pháp, pháp chế trong từng khâu ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, hạn chế chồng chéo, trùng lặp chức năng, nhiệm vụ. Cùng với kiện toàn tổ chức, các cơ quan tư pháp đã đổi mới phương thức chỉ đạo, quản lý điều hành nghiệp vụ, nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, bảo đảm đúng thẩm quyền, quy trình, thủ tục pháp luật.
Các cơ quan tư pháp Quân đội luôn chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng. Công tác điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành chặt chẽ, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai, lọt tội phạm. Việc thi hành án hình sự trong Quân đội được tổ chức nghiêm túc, chặt chẽ, đồng thời chú trọng yếu tố nhân đạo, bảo đảm chế độ, quyền lợi chính đáng của phạm nhân, thực hiện tốt chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, nhiều tiến bộ về ứng dụng khoa học-công nghệ đã được đưa vào hoạt động tố tụng như: Ghi âm, ghi hình có âm thanh khi hỏi cung; xây dựng hồ sơ vụ án điện tử; từng bước tổ chức phiên tòa trực tuyến với điều kiện bảo mật cao.
Bên cạnh đó, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và kiểm soát quyền lực được đẩy mạnh. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan tư pháp thực hiện nghiêm các Quy định của Trung ương về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ và phòng, chống chạy chức, chạy quyền. Các vụ việc sai phạm đều được xem xét, xử lý kịp thời, nghiêm minh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, qua đó giữ vững kỷ luật, kỷ cương Quân đội, củng cố niềm tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Sự phối hợp giữa Ban chỉ đạo 1389 của Bộ Quốc phòng(1) với các cơ quan thanh tra, kiểm toán, tư pháp ngày càng chặt chẽ, góp phần phát hiện, xử lý dứt điểm nhiều vụ việc tồn đọng, phức tạp.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong toàn quân được tăng cường và đổi mới mạnh mẽ. Các đơn vị tổ chức nhiều hình thức tuyên truyền đa dạng, thiết thực: Tổ chức Ngày pháp luật Việt Nam (9-11) hằng năm; thực hiện có hiệu quả Đề án “Phát huy vai trò của lực lượng Quân đội nhân dân tham gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động nhân dân chấp hành pháp luật tại cơ sở giai đoạn 2021-2027” (Đề án 1371) trong Bộ Quốc phòng; biên soạn tài liệu bồi dưỡng; phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu văn bản pháp luật; ứng dụng công nghệ thông tin trong tuyên truyền. Đặc biệt, việc bố trí cán bộ pháp chế ở cơ sở đã phát huy tác dụng, kịp thời tư vấn, giải đáp vướng mắc, góp phần giảm thiểu vi phạm pháp luật, kỷ luật trong đơn vị. Nhờ đó, ý thức thượng tôn pháp luật trong cán bộ, chiến sĩ ngày càng được nâng cao, văn hóa pháp luật trong Quân đội ngày càng bền chặt.
Cùng với giáo dục pháp luật, công tác xây dựng, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ tư pháp trong Quân đội được chú trọng. Các cơ quan chức năng đã thực hiện nhiều biện pháp quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm, nhằm xây dựng đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán quân sự, cán bộ pháp chế có phẩm chất chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Các chương trình đào tạo kết hợp trong nước và hợp tác quốc tế đã giúp nhiều cán bộ tiếp cận kiến thức hiện đại, nâng cao năng lực xử lý các vụ việc phức tạp, đặc biệt là tội phạm công nghệ cao, an ninh mạng. Đội ngũ cán bộ tư pháp Quân đội ngày càng trưởng thành, góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật trong Quân đội.
Bộ Quốc phòng và các cơ quan, đơn vị thường xuyên quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật cho công tác tư pháp. Nhiều dự án nâng cấp phương tiện điều tra, xây dựng hệ thống họp trực tuyến, phần mềm quản lý hồ sơ, phòng giám định kỹ thuật số được triển khai, phục vụ thiết thực công tác nghiệp vụ. Đặc biệt, việc đẩy mạnh số hóa, tiến hành thí điểm và nhân rộng phiên tòa trực tuyến, ghi âm, ghi hình hỏi cung, lưu trữ hồ sơ điện tử đã góp phần rút ngắn thời gian giải quyết vụ án, nâng cao chất lượng xét xử và bảo đảm tính minh bạch.
Có thể khẳng định, trong nhiệm kỳ 2020-2025, công tác tư pháp trong Quân đội đã đạt được những kết quả rõ rệt, thực chất và có ý nghĩa chiến lược. Hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện; tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả hơn; chất lượng công tác tố tụng, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án ngày càng nâng cao; công tác kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; ý thức chấp hành pháp luật trong toàn quân có chuyển biến tích cực; đội ngũ cán bộ tư pháp ngày càng trưởng thành; cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật ngày càng hiện đại. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về quốc phòng, củng cố vững chắc niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với Quân đội.
Tình hình thế giới, khu vực thời gian tới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định; sự cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa các nước lớn, xung đột và nguy cơ chiến tranh cục bộ với những diễn biến khó lường; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật và dữ liệu lớn, cùng các thách thức an ninh phi truyền thống, đặt ra cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam những tình huống pháp lý mới, phức tạp. Trong nước, thành tựu 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã, đang tạo ra nhiều thuận lợi, nhưng vẫn còn những khó khăn, thách thức đan xen; các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội, nhất là trên không gian mạng, sử dụng chiến tranh thông tin, tâm lý để kích động, xuyên tạc, chia rẽ nội bộ; việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, cải cách hành chính, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp cũng tác động trực tiếp đến cơ cấu tổ chức, cơ chế phối hợp và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong Quân đội.
Trong bối cảnh đó, để đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, công tác tư pháp trong Quân đội thời gian tới phải hướng đến mục tiêu xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm mọi hành vi vi phạm đều được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Quân đội. Để thực hiện tốt yêu cầu trên, đòi hỏi toàn quân cần tập trung thực hiện tốt những vấn đề chính sau:
Một là, tiếp tục nâng cao chất lượng tham mưu với Đảng, Nhà nước, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác cải cách tư pháp trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng
Các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về cải cách tư pháp, trọng tâm là Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30-4-2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Kết luận số 84-KL/TW ngày 29-7-2020 của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, các kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương và của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về cải cách tư pháp.
Trên cơ sở đó, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xem xét, quyết định chủ trương, định hướng về cơ chế, giải pháp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ cải cách tư pháp, xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp, thanh tra Quân đội tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác tham mưu phải đi đôi với việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận; tăng cường tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ trong lĩnh vực tư pháp Quân đội. Đề xuất các giải pháp ứng dụng thành tựu khoa học-công nghệ trong hoạt động tư pháp. Đồng thời, tham mưu xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực trong cải cách tư pháp Quân đội, gắn với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bảo đảm tính công khai, minh bạch, đúng pháp luật trong mọi hoạt động.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động quân sự, quốc phòng và tư pháp Quân đội
Việc rà soát, đề nghị cấp có thẩm quyền hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng và tư pháp Quân đội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là cơ sở để bảo đảm hoạt động của các cơ quan tư pháp, kiểm tra, thanh tra, pháp chế Quân đội được thống nhất, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, đồng thời đáp ứng yêu cầu đặc thù của Quân đội. Thời gian qua, hệ thống pháp luật liên quan đến quốc phòng, an ninh và tư pháp Quân đội đã được quan tâm sửa đổi, bổ sung và từng bước hoàn thiện. Nhiều đạo luật quan trọng như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Quốc phòng, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Lực lượng dự bị động viên, Luật Dân quân tự vệ... đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho hoạt động quân sự, quốc phòng và công tác tư pháp Quân đội. Tuy nhiên, sự thay đổi về tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, cùng với việc thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp cũng đặt ra yêu cầu mới trong điều chỉnh pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Quân đội. Do đó, các cơ quan chức năng trong Quân đội chủ động rà soát toàn diện hệ thống pháp luật liên quan đến quân sự, quốc phòng và tư pháp Quân đội.
Trên cơ sở rà soát, cần kịp thời phát hiện những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, không còn phù hợp hoặc chưa có quy định điều chỉnh, từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoặc ban hành mới văn bản pháp luật cho phù hợp. Cần rà soát, điều chỉnh các quy định pháp luật liên quan đến phân cấp, phân quyền trong quản lý quốc phòng, an ninh; hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý, sử dụng đất quốc phòng, tài sản công trong Quân đội, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán trong lĩnh vực quốc phòng. Đồng thời, cần thực hiện tốt các quy định về phối hợp giữa cơ quan điều tra hình sự Quân đội với cơ quan điều tra Công an, viện kiểm sát và tòa án nhân dân, góp phần tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm cho công tác tư pháp Quân đội vận hành hiệu lực, hiệu quả.
Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp trong Quân đội
Đây không những là nhiệm vụ xây dựng ngành tư pháp Quân đội, mà còn gắn liền với xu thế cải cách tư pháp quốc gia và yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Các đơn vị trong toàn quân, nhất là các cơ quan tư pháp trong Quân đội phải xác định rõ mục tiêu đổi mới là xây dựng hệ thống tư pháp Quân đội thật sự trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động nghiệp vụ ở từng khâu tố tụng. Công tác điều tra cần tiếp tục đổi mới phương pháp, nâng cao trình độ chuyên môn, tích cực ứng dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật hiện đại như công nghệ số, giám định điện tử, phân tích dữ liệu lớn, nhằm phát hiện và xử lý nhanh chóng, chính xác các vụ việc, đặc biệt là tội phạm sử dụng công nghệ cao.
Công tác kiểm sát cần tập trung bảo đảm tính khách quan, toàn diện, nâng cao năng lực tranh tụng tại tòa, đồng thời chú trọng công tác kiểm sát thi hành án. Hoạt động xét xử phải được tiến hành đúng pháp luật, công khai, minh bạch, tăng cường tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm, phiên tòa trực tuyến có kiểm soát chặt chẽ, qua đó nâng cao chất lượng xét xử, hạn chế oan sai, bỏ lọt tội phạm. Chú trọng đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong Quân đội cũng như giữa tư pháp Quân đội với tư pháp nhà nước. Phải xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, hiệu quả trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; kịp thời tháo gỡ vướng mắc, bất cập nảy sinh. Đồng thời, phải tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm với các cơ quan tư pháp dân sự, cũng như tham khảo có chọn lọc mô hình tư pháp quân đội của các nước, qua đó tiếp thu những kinh nghiệm hay, phù hợp để vận dụng vào điều kiện cụ thể của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Bốn là, tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và chấp hành pháp luật trong toàn quân
Đây là yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp bách, góp phần nâng cao nhận thức, hình thành văn hóa pháp luật và củng cố kỷ luật “thép” của Quân đội. Theo đó, các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, coi đây là định hướng chính trị cho công tác giáo dục pháp luật trong Quân đội. Phải đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, phù hợp với đặc thù Quân đội. Nội dung tuyên truyền phải bám sát nhiệm vụ chính trị của đơn vị, gắn chặt với chức trách, nhiệm vụ của từng đối tượng quân nhân. Đối với cán bộ chỉ huy, cần nhấn mạnh trách nhiệm nêu gương, trách nhiệm quản lý đơn vị theo quy định của pháp luật và kỷ luật của Quân đội. Đối với chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng, cần chú trọng các quy định liên quan trực tiếp đến sinh hoạt, học tập, công tác, quan hệ xã hội. Phương pháp phổ biến cần kết hợp giữa truyền thống và hiện đại: Tổ chức tuyên truyền miệng, sinh hoạt chính trị pháp luật với ứng dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội, hệ thống học liệu số, các mô hình mô phỏng... Phải gắn việc học tập pháp luật với xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong Quân đội; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật với quản lý, rèn luyện kỷ luật bộ đội. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần được gắn với việc xây dựng cơ sở dữ liệu pháp luật toàn quân, bảo đảm mọi cán bộ, chiến sĩ đều có điều kiện thuận lợi để tiếp cận, tra cứu, học tập. Cần duy trì nghiêm chế độ kiểm tra định kỳ, đột xuất của cấp ủy, chỉ huy; phát huy vai trò của cơ quan kiểm tra, thanh tra, pháp chế trong phát hiện, xử lý vi phạm; đồng thời xây dựng cơ chế tự quản, tự giám sát trong từng tập thể đơn vị. Việc xử lý vi phạm pháp luật, kỷ luật phải kịp thời, nghiêm minh, công bằng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, qua đó răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Song song với đó, cần quan tâm chính sách khuyến khích, động viên những tập thể, cá nhân tiêu biểu trong chấp hành pháp luật, tạo sự lan tỏa tích cực trong toàn quân và toàn xã hội.
Năm là, nâng cao chất lượng các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc, thể hiện tinh thần “nghiêm minh, công bằng nhưng nhân đạo” trong tư pháp Quân đội. Trước hết, phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp trong Quân đội, bảo đảm thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ giữa các khâu tố tụng. Cần xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của cơ quan điều tra hình sự, viện kiểm sát quân sự, tòa án quân sự trong từng giai đoạn tố tụng, tránh chồng chéo, bỏ trống hoặc lạm quyền. Đồng thời, phải tăng cường cơ chế phối hợp giữa cơ quan tư pháp Quân đội với các cơ quan tư pháp nhà nước, nhất là trong những vụ án có yếu tố liên ngành, liên quan đến cả quân nhân và dân sự. Công tác điều tra phải được đổi mới mạnh mẽ theo hướng nâng cao chất lượng nghiệp vụ, bảo đảm khách quan, toàn diện, kịp thời. Cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học-công nghệ hiện đại trong điều tra, như công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn, giám định điện tử, sinh học, hóa học... để nâng cao độ chính xác, tính thuyết phục của chứng cứ. Việc hỏi cung bị can phải thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, gắn với việc ghi âm, ghi hình để phòng ngừa oan sai, bức cung, nhục hình. Công tác điều tra cũng cần chú trọng phát hiện, xử lý kịp thời các loại tội phạm mới trong Quân đội, nhất là tội phạm công nghệ cao, tội phạm mạng... Cần tiếp tục nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra, bảo đảm việc khởi tố, điều tra đúng căn cứ, đúng pháp luật... Đối với hoạt động xét xử, tòa án quân sự phải luôn quán triệt phương châm “thượng tôn pháp luật, bảo vệ công lý”, bảo đảm xét xử công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Công tác thi hành án trong Quân đội cần được thực hiện nghiêm minh nhưng cũng bảo đảm tính nhân đạo. Cần xây dựng cơ chế quản lý, giám sát chặt chẽ, phân loại đối tượng, tổ chức thi hành án đúng quy định, đồng thời bảo đảm quyền con người, quyền công dân của phạm nhân.
Sáu là, quan tâm chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp Quân đội trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị kiên định, trình độ chuyên môn cao, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng là yêu cầu vừa cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài, gắn chặt với mục tiêu xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Cần tiến hành rà soát, đánh giá toàn diện đội ngũ cán bộ tư pháp Quân đội hiện có, từ đó xây dựng quy hoạch cán bộ khoa học, hợp lý, bảo đảm tính kế thừa và phát triển liên tục. Đồng thời có chính sách phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng nguồn cán bộ trẻ có phẩm chất, năng lực nổi trội, tạo nguồn kế cận vững chắc. Việc quy hoạch phải gắn chặt với đào tạo, sử dụng và quản lý, bảo đảm mỗi cán bộ được bố trí, phát huy đúng sở trường, năng lực. Mở rộng hợp tác với các cơ sở đào tạo luật uy tín trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho cán bộ tư pháp Quân đội học tập, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm. Đặc biệt, phải coi trọng đào tạo tại chức, bồi dưỡng thường xuyên, liên tục, kết hợp đào tạo chính quy với tự học, tự rèn luyện. Cùng với đó, có cơ chế, chính sách quan tâm hơn nữa đến chế độ đãi ngộ, bảo đảm điều kiện công tác, sinh hoạt cho cán bộ tư pháp Quân đội. Đồng thời, xây dựng cơ chế bảo vệ cán bộ tư pháp khi thực thi nhiệm vụ, tránh bị tác động, can thiệp trái pháp luật; phát huy vai trò giám sát của quần chúng, của tập thể đơn vị; xây dựng môi trường công tác trong sạch, minh bạch, dân chủ, giúp cán bộ tư pháp Quân đội yên tâm rèn luyện, phấn đấu.
Công tác tư pháp trong Quân đội là một trong những mặt công tác trọng tâm của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thành công của công tác này không chỉ góp phần giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương mà còn trực tiếp nâng cao sức mạnh chiến đấu, năng lực quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng, củng cố niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với Quân đội, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
(1) Ban chỉ đạo về thực hiện Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy; phòng, chống mua bán người; phòng, chống tham nhũng; chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Thượng tướng VÕ MINH LƯƠNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng