Thách thức trong công tác giảm nghèo
Tính đến hết năm 2024, tỉnh ta còn 4.806 hộ nghèo, chiếm 1,51%; 6.006 hộ cận nghèo, chiếm 1,89%. Mặc dù số lượng hộ nghèo không nhiều, nhưng để đạt chỉ tiêu đề ra cho năm cuối cùng thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021- 2025 cũng là nhiệm vụ không dễ dàng.
Tạo nguồn lực hỗ trợ người nghèo
Những năm qua, tỉnh ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với người nghèo thông qua việc nghiên cứu, ban hành và thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ đặc thù có ý nghĩa rất quan trọng, có diện bao trùm, đa dạng, nâng cao khả năng tiếp cận của các nhóm đối tượng, nhất là người yếu thế.
Nhiều chính sách đặc thù được thực hiện đã tạo dấu ấn đậm nét cho công tác đảm bảo an sinh xã hội của tỉnh, điển hình như: Nghị quyết số 23/2020/NQHĐND ngày 27/5/2020 của HĐND tỉnh quy định chính sách hỗ trợ các đối tượng thuộc hộ nghèo có thành viên là người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; Nghị quyết số 07/2023/NQ-HĐND của HĐND tỉnh Ninh Bình về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định ban hành kèm theo Nghị quyết số 130/2021/NQ-HĐND ngày 10/12/2021 của HĐND tỉnh Ninh Bình ban hành Quy định mức chuẩn trợ giúp xã hội, mức trợ giúp xã hội và hỗ trợ một số đối tượng có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn tỉnh Ninh Bình chưa được quy định tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ; Nghị quyết số 61/2022/NQ-HĐND ngày 27/10/2022 của HĐND tỉnh về việc quy định hỗ trợ kinh phí đóng BHYT đối với một số nhóm đối tượng có đăng ký thường trú trên địa bàn tỉnh và đặc biệt là Nghị quyết số 43, ngày 10/3/2023 của HĐND tỉnh quy định chính sách hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở cho hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2023-2025.
Thực hiện Nghị quyết số 43, đến hết năm 2024, đã có 921 hộ được hỗ trợ xây mới, sửa chữa nhà ở, với tổng kinh phí trên 78 tỷ đồng. Mới đây, HĐND tỉnh cũng đã thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 43 ban hành quy định chính sách hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở cho hộ nghèo trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2023- 2025 với điểm nhấn là mở rộng đối tượng thụ hưởng chính sách. Chính sách đậm tính nhân văn này sẽ là nguồn lực, động lực lớn giúp người nghèo, cận nghèo có khó khăn về nhà ở có cơ hội an cư.
Cùng với sự hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh, các địa phương cũng chủ động thực hiện nhiều hoạt động chăm lo cho người có công, người nghèo.Với sự chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, của các lực lượng xã hội, công tác giảm nghèo ở tỉnh ta đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng. Nếu như bước vào năm 2022, tỉnh ta còn 9.614 hộ nghèo, chiếm 3,07%; 10.881 hộ cận nghèo, chiếm 3,48% thì tính đến hết năm 2024, tỉnh ta còn 4.806 hộ nghèo, chiếm 1,51%; 6.006 hộ cận nghèo, chiếm 1,89%.
Gỡ khó trong thực hiện chính sách để giảm nghèo bền vững
Số lượng hộ nghèo của tỉnh không còn nhiều nhưng cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ đối với công tác giảm nghèo trong năm cuối thực hiện Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và cả những năm tiếp theo.
Xác định rõ việc hỗ trợ sinh kế là cơ sở quan trọng nhằm tạo sức bật để người nghèo vươn lên, trong những năm qua, các cấp, các ngành, các địa phương đặc biệt chú trọng tới hoạt động tư vấn học nghề, tạo việc làm, tạo điều kiện vay vốn mở rộng sản xuất… giúp người nghèo có thêm điều kiện để vươn lên.
Thực hiện Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, bên cạnh việc chủ động bố trí ngân sách địa phương để thực hiện Chương trình, tỉnh cũng chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương bám sát các quy định, hướng dẫn của Trung ương, triển khai đồng bộ các giải pháp để thực hiện Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh. Một trong những dự án trọng tâm, được kỳ vọng tạo sinh kế giúp người nghèo vươn lên đó là Dự án 4 về Phát triển giáo dục nghề nghiệp, việc làm bền vững.
Để thực hiện có hiệu quả Dự án 4, các địa phương đã thực hiện tuyên truyền công tác đào tạo nghề cho lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người lao động có thu nhập thấp trên các phương tiện thông tin đại chúng. Triển khai công tác điều tra, khảo sát nhu cầu đào tạo, ngành nghề đào tạo nhằm thu thập thông tin về nhu cầu đào tạo nghề của lao động; công tác đào tạo nghề cho người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người lao động có thu nhập thấp.
Thực hiện Dự án 4, tỉnh ta đã phân bổ 32,8 tỷ đồng (trong đó: Phát triển giáo dục nghề nghiệp 16,8 tỷ đồng; hỗ trợ việc làm bền vững 16 tỷ đồng). Tuy nhiên, việc thực hiện Dự án 4 còn nhiều khó khăn, nhất là ở Tiểu dự án 1 về phát triển giáo dục nghề nghiệp. Thực tế cho thấy, nhiều địa phương không thể mở được lớp đào tạo nghề nào dành cho các đối tượng là hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo.
Đồng chí Bùi Văn Lợi, Phó Trưởng phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Yên Mô cho biết: Để hỗ trợ giảm nghèo hiệu quả, không có cách nào khác là tạo sinh kế, giúp người nghèo có thu nhập để vươn lên. Dự án 4 là một trong những chính sách rất ý nghĩa để mang lại sinh kế cho người nghèo. Tuy nhiên, đã gần hết giai đoạn 2021-2025, huyện Yên Mô vẫn chưa thể mở được lớp dạy nghề nào dành cho các đối tượng của Dự án 4. Nguyên nhân là do các đối tượng người nghèo, cận nghèo, người mới thoát nghèo phần lớn không còn khả năng lao động. Đối tượng còn lại thuộc diện hỗ trợ của Dự án là người lao động có thu nhập thấp thì cho đến nay, Trung ương vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể để rà soát người lao động có thu nhập thấp.
Huyện Kim Sơn cũng là địa phương chưa giải ngân được khoản tiền nào cho hoạt động dạy nghề cho người nghèo theo Dự án 4. Năm 2024, huyện được cấp kinh phí 353 triệu đồng để thực hiện tiểu dự án dạy nghề trong Dự án 4, nhưng đến cuối năm, không mở được lớp dạy nghề nào, huyện Kim Sơn đã trả lại ngân sách kinh phí được cấp. Cùng nguyên nhân như huyện Yên Mô, là do người nghèo, cận nghèo, người mới thoát nghèo đa số thuộc diện bảo trợ, không có khả năng học nghề. Đối tượng có khả năng học là những lao động có thu nhập thấp thì lại chưa có hướng dẫn cụ thể để xác định được đối tượng.
Đồng chí Nguyễn Thị Thu Hằng, Trưởng phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Kim Sơn cho biết, cuối năm 2024, huyện còn 1.141 hộ nghèo, trong đó có 919 hộ không có khả năng lao động; 1.411 hộ cận nghèo, trong đó có 924 hộ không có khả năng lao động. Đây chính là thách thức lớn nhất đối với công tác giảm nghèo của địa phương trong năm cuối thực hiện Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025.
Năm 2025 là năm cuối cùng thực hiện Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025. Vì vậy, để đạt được mục tiêu đặt ra từ đầu giai đoạn, các cấp ủy đảng, chính quyền cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả chương trình, dự án hỗ trợ giảm nghèo của Trung ương, của tỉnh trên địa bàn. Phân bổ và sử dụng nguồn lực hiệu quả, đúng mục đích, khơi thông điểm nghẽn để chính sách phát huy hiệu quả.
Đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, dự án, các chính sách giảm nghèo trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, cần tiếp tục huy động nguồn lực của doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân hảo tâm và đóng góp của Nhân dân cho công tác giảm nghèo. Bảo đảm nguồn vốn tín dụng ưu đãi để hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo vay vốn phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập. Đặc biệt là khơi dậy ý chí, nỗ lực vươn lên và xóa bỏ tư tưởng trông chờ, ỷ lại của người nghèo, cận nghèo… coi đây là giải pháp then chốt để giảm nghèo nhanh, bền vững.
Nguồn Ninh Bình: https://baoninhbinh.org.vn/thach-thuc-trong-cong-tac-giam-ngheo-377580.htm