Thâm Tâm - người làm báo đa tài
Cho đến nay, mỗi khi nhắc tới Thâm Tâm, nhiều người vẫn tưởng ông là một nhà thơ liệt sĩ, hy sinh trong kháng chiến chống Pháp với những bài thơ nổi tiếng mang âm hưởng bi tráng như 'Tống biệt hành', 'Vọng nhân hành' và nghi án văn chương 'Hai sắc hoa Ti-gôn'... Hậu thế không phải ai cũng biết rằng, ông hy sinh khi đang là thư ký tòa soạn kiêm phóng viên của Báo Vệ quốc quân, nay là Báo Quân đội nhân dân.
Một người làm báo đa tài
Vốn là một thanh niên đa tài, từ những năm trước 1940, Thâm Tâm đã vẽ tranh, viết văn, làm thơ, viết báo và trở thành một tên tuổi trên các tờ Tiểu thuyết thứ Bảy, Tiểu thuyết thứ Năm, Truyền bá...
Theo một số tài liệu đã công bố, từ trước 1945, Thâm Tâm bí mật tham gia làm báo phục vụ cách mạng. Ông tham gia trình bày bìa cho tờ Cờ giải phóng (cơ quan tuyên truyền cổ động Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương) và tờ Cứu quốc (Mặt trận Việt Minh) từ khi còn xuất bản bí mật cho đến khi ra công khai.

Nhà thơ, nhà báo Thâm Tâm (hàng đầu, bên phải) cùng đồng đội những ngày làm Báo Vệ quốc quân ở chiến khu Việt Bắc.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Thâm Tâm là một trong những văn nghệ sĩ năng nổ hòa vào không khí mới của đất nước. Ông tham gia Ban Biên tập Báo Tiên phong của Hội Văn hóa Cứu quốc được chuẩn bị từ trước ngày Tổng khởi nghĩa, tham gia ấn phẩm Quốc hội - ấn phẩm chỉ xuất bản 12 số hướng đến ngày bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam non trẻ vừa giành được độc lập.
Trong đó, vở kịch “19 tháng 8” từng được dàn dựng, biểu diễn tại Hà Nội dịp 19/8/1946 dường như đánh một dấu mốc quan trọng về con đường thẳng tiến đi theo cách mạng của nhà thơ Thâm Tâm.
Sau lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thâm Tâm cùng các đồng chí, đồng đội của mình theo đoàn quân kháng chiến, đem tài năng, kỹ năng, kinh nghiệm làm báo của mình phục vụ tờ báo cách mạng Vệ quốc quân và hy sinh khi đang nhận nhiệm vụ đi làm báo trong Chiến dịch Biên giới ngày 18/8/1950 tại Cao Bằng.
Tuy nhiên, giai đoạn ông lên chiến khu làm báo phục vụ cách mạng trong vai trò là một nhà báo (1947-1950) thì các tư liệu về nhà báo Thâm Tâm còn lại đến nay khá ít ỏi, mờ nhạt. Có lẽ, đó chính là lý do đến nay nhiều người chỉ nhớ về ông với vai trò là một nhà thơ, chứ ít đề cập đến vai trò nhà báo của ông, mặc dù tại Báo Vệ quốc quân, ông là một “mắt xích” quan trọng ngay từ những ngày đầu.
Thật may mắn, nhờ tập bút ký "Hoa tầm xuân" của nhà báo kỳ cựu Trúc Kỳ do NXB Văn hóa - Thông tin ấn hành năm 1998, bạn đọc mới có cơ hội hình dung ra chân dung nhà báo Thâm Tâm một cách khá đầy đủ trong những ngày làm báo ở chiến khu Việt Bắc.
Trong cuốn sách này, nhà báo Trúc Kỳ đã thuật lại rằng, ngày 19/1/1947, chỉ một tháng sau ngày Toàn quốc kháng chiến, Hội nghị Chính trị viên toàn quốc họp lần thứ nhất đã quyết định giao cho Cục Chính trị, Bộ Quốc phòng - lúc đó đồng chí Văn Tiến Dũng làm Cục trưởng - ra một tờ báo lấy tên là Báo Vệ quốc quân. Sau đó, số báo Vệ quốc quân đầu tiên đã ra mắt ngày 22/3/1947 tại Phù Lỗ (Phong Châu, Phú Thọ), với công đầu thuộc về Thâm Tâm.
Nhà báo Trúc Kỳ viết: “Tòa soạn báo đã được tổ chức gấp rút trước đó. Một số anh em làm công tác biên tập đã được tập hợp lại, trong đó có 2 văn nghệ sĩ mới nhập ngũ là nhà thơ Thâm Tâm và nhà văn Nguyễn Công Hoan. Số người tuy ít nhưng bài vở của số báo đầu tiên cũng khá phong phú.
Ngoài những bài của trên gửi về như: “Thư của Hồ Chủ tịch gửi cho tòa soạn”, các huấn luyện và lời hiệu triệu của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, lúc này có đủ loại bài như: Lời ra mắt của báo, các tin chiến sự ở các mặt trận trên mọi miền đất nước, các gương chiến đấu dũng cảm của các chiến sĩ và nhân dân ta, thơ châm biếm, bài đả kích, đặc biệt có cả thư của 2 hàng binh Đức mới chạy sang ta tố cáo tội ác xâm lược của giặc.
Biên tập cho số báo này, công đầu phải nói tới anh Thâm Tâm. Anh viết bài, sửa bài, thu thập bài bạn đọc, sắp xếp trang, lặn lội với anh em nhà in, sửa mo-rát, tìm các “co” chữ, kiểu chữ cho thích hợp với từng bài, từng tít bài, lên ma-két tờ báo. Nhìn anh nằm bò ra, cần cù và lặng lẽ sửa từng chữ, từng câu xếp nhầm, từng cái phẩy, từng cái chấm câu đặt sai trên các bài dập thử của người sắp chữ, ít ai ngờ rằng chính con người đó từng là tác giả của những bài thơ “Tống biệt hành”, “Can trường hành” và “Vọng nhân hành”... đượm chất ngang tàng và người đang bốc men say hồi nào...”.
Tận tâm, tận lực trong những ngày gian khổ
Cũng theo nhà báo Trúc Kỳ, tòa soạn lúc bấy giờ, ngoài Chủ nhiệm Trần Độ thì chỉ có 6 người, trong đó có 4 cán bộ biên tập là Nguyễn Công Hoan, Thâm Tâm, Thôi Hữu, Trúc Kỳ và 2 họa sĩ là Mai Văn Hiến và Dương Bích Liên. Chính vì thế, khi làm số báo kỷ niệm Ngày Cách mạng Tháng Tám trên chiến khu Việt Bắc 19/8/1947: “Thâm Tâm đi hết đơn vị này đến đơn vị khác đóng trong vùng để phỏng vấn về trường kỳ kháng chiến, về cảm nghĩ lúc đầu tiên thấy xuất hiện lá cờ đỏ sao vàng...”.
Còn trong cuốn “Chân dung các nhà báo liệt sĩ”, nhà báo Trúc Kỳ đã kể một kỷ niệm sâu sắc về sự cẩn trọng, trách nhiệm của Thâm Tâm với vai trò một người thư ký tòa soạn tờ Vệ quốc quân.
Một lần, khi nhà báo Trúc Kỳ đi đến nhà in xem bản in thử, thấy không còn lỗi nào, đã ký vào phiếu cho in rồi cầm bản in thử về đưa cho Thâm Tâm. Trong số báo có bài nói về du kích một xã ở Gia Lâm đánh giặc giỏi. Người sắp chữ đã sắp tất cả các chữ “Sủi” (là tên riêng của làng) thành “Sải” và Thâm Tâm đã phát hiện ra sai sót này. Thương Trúc Kỳ vừa đi đường xa về mệt, Thâm Tâm không cho ông trở lại nhà in để sửa một chữ sai đó, mà lẳng lặng một mình vượt mấy cây số đường rừng lúc trời đang mưa lũ để đến nhà in, kịp sửa trước khi máy chạy chỉ vài phút.

Tác phẩm “Lá cờ máu” của Thâm Tâm được in trên ấn phẩm của Hội Văn hóa cứu quốc.
Như vậy, có thể thấy, trong thời gian hơn 3 năm làm việc tại Báo Vệ quốc quân từ số đầu tiên đến khi hy sinh, nhà thơ Thâm Tâm vừa làm biên tập, thư ký tòa soạn, lại vừa làm phóng viên lăn lộn, dấn thân, tâm huyết và tận tụy trong những năm tháng đầy khó khăn gian khổ ấy.
Khoảng giữa năm 1950, đồng chí Nguyễn Chí Thanh bấy giờ vừa từ miền Trung ra nhận công tác ở Quân ủy Trung ương, đã mời Thâm Tâm và Vũ Cao đến làm việc rồi giao nhiệm vụ cho 2 người đi làm báo cho Chiến dịch Biên giới thu đông 1950. Thế nhưng, khi vừa hành quân qua mấy ngày đêm đến Cao Bằng thì Thâm Tâm bị một cơn bệnh và hy sinh ngay trước thềm chiến dịch... Nhà báo Trúc Kỳ là người đã vuốt mắt cho Thâm Tâm, dự lễ an táng người đồng chí, đồng đội của mình ở một bản nhỏ miền biên giới Cao Bằng.
Nhà thơ Thâm Tâm lên đường theo kháng chiến khi để vợ ông, mới sinh con đầu lòng, tản cư về quê nhà Hải Dương và ông chỉ có một người con trai duy nhất là ông Nguyễn Tuấn Khoa, năm nay cũng vừa 80 tuổi ta.
Ông Nguyễn Tuấn Khoa chia sẻ rằng: “Từ ngày lên đường theo kháng chiến đầu tháng 12/1946, cha tôi chỉ ghé về thăm nhà duy nhất một lần khi gia đình tôi đang tản cư về quê nội ở Hải Dương và để lại cho đời bài thơ “Chiều mưa đường số 5” vẫn được nhiều người nhắc nhớ. Lúc đó tôi còn quá nhỏ, không nhớ mặt bố nhưng còn lưu lại được 2 tấm ảnh do bố tôi chụp tôi và ông nội.
Sau đó, vào cuối năm 1950, gia đình tôi nhận được một chiếc ba lô của bố có tấm giấy báo tử báo tin nhà thơ đã hy sinh vào ngày 18/8/1950, được an táng tại một bản nhỏ dưới chân đèo Mã Phục (Cao Bằng) cùng 2 bộ quần áo, 1 con dao nhíp đa năng và 6 bức ảnh chụp đám tang bố. Đó là toàn bộ gia tài nhà thơ, nhà báo chiến sĩ Thâm Tâm để lại cho vợ con...”.
Nhà thơ, nhà báo Thâm Tâm đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học - nghệ thuật năm 2007 và tên ông cũng đã được đặt cho một con phố thuộc quận Cầu Giấy, TP Hà Nội.
Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/tham-tam-nguoi-lam-bao-da-tai-i772167/