Thể chế hóa quyền tự do kinh doanh góp phần kiến tạo môi trường phát triển đột phá và khơi thông nguồn lực

Hiến pháp năm 2013 khẳng định các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau trong hoạt động, tạo bước đột phá mạnh mẽ hơn về quyền tự do kinh doanh và sự bình đẳng trong hoạt động kinh doanh giữa các thành phần kinh tế; có ý nghĩa khẳng định quyền tự do kinh doanh là một quyền hiến định và là quy định nền tảng cơ sở cho việc cụ thể hóa quyền tự do kinh doanh trong các văn bản pháp luật có liên quan. Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự ghi nhận, tôn trọng sự đa dạng hình thức sở hữu, bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, các quyền về tài sản và sở hữu trí tuệ.

TS.Chu Thị Hoa

TS.Chu Thị Hoa

Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, quyền tự do kinh doanh (QTDKD) đã được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật về dân sự, kinh doanh, thương mại, nhất là ở các văn bản luật gốc, có tác động lớn đến cộng đồng doanh nghiệp như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Luật đất đai,…

Những quy định quan trọng nói trên tạo nền tảng của việc ghi nhận và bảo vệ QTDKD của các chủ thể trong nền kinh tế. Đây là tiền đề quan trọng thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh doanh - thương mại, góp phần vào sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng.

Những thay đổi đã dẫn đến những hiệu quả tích cực như môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện và thông thoáng hơn; lĩnh vực kinh doanh có điều kiện ngày càng thu hẹp; nhiều điều kiện đầu tư kinh doanh gây rào cản cho việc tiếp cận thị trường được rà soát, cắt giảm hoặc đơn giản hóa; bảo đảm tốt hơn QTDKD của người dân và doanh nghiệp trong những ngành, nghề pháp luật không cấm. Từ đó, vị trí xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu của Việt Nam được cải thiện rõ rệt. Đồng thời, Việt Nam cũng tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp mới thành lập; giảm tỷ lệ doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động; giảm chi phí đầu vào, chi phí cơ hội, chi phí không chính thức cho doanh nghiệp và người dân. Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong gần 40 năm Đổi mới, với tốc độ tăng trưởng GDP cao, góp phần cải thiện đáng kể mức sống của người dân.

Chưa thể hiện hết tiềm lực của khu vực kinh tế tư nhân

Tuy nhiên, các quy định về QTDKD vẫn còn một số hạn chế.

Một là, giữa “ghi nhận” QTDKD và “bảo đảm thực thi” trên thực tế vẫn còn tồn tại khoảng cách.

Ví dụ, Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh: Về lý thuyết, công dân được chọn kinh doanh các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, trên thực tế thi hành pháp luật, nguyên tắc này không phải khi nào cũng được thực thi. Chẳng hạn, mỗi khi trong xã hội xuất hiện ngành nghề kinh doanh mới (không quen thuộc với cơ quan quản lý nhà nước) thì người dân gặp khó khăn khi đăng ký thành lập doanh nghiệp. Đa phần, các mô hình kinh doanh mới được đăng ký vào ngành dịch vụ khác hoặc có thể sẽ không được đăng ký kinh doanh, ví dụ, các ngành nghề kinh doanh liên quan đến những ứng dụng của cuộc Cách mạng công nghệ (CMCN) 4.0 như “tiền mã hóa”, “dịch vụ cho vay ngang hàng”,… hiện nay vẫn chưa đăng ký kinh doanh được ở Việt Nam.

Hai là, tư duy “quản không được thì cấm” hoặc “chưa hiểu rõ mà vẫn quản” gây cản trở việc thực thi QTDKD. Ví dụ, quy định về thanh toán không dùng tiền mặt hiện vẫn chưa thừa nhận bitcoin và các loại tiền mã hóa là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam. Trên thực tế, các hoạt động đầu tư, giao dịch và huy động vốn bằng tiền ảo vẫn đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam, mặc dù chưa có khung pháp lý điều chỉnh. Những hoạt động đầu tư này hoàn toàn nằm ngoài sự quản lý của cơ quan nhà nước. Điều này dẫn đến tình trạng một số cá nhân, tổ chức lợi dụng lỗ hổng về pháp lý, tính phức tạp về công nghệ và sự thiếu hiểu biết của công chúng để huy động vốn trái phép hoặc lừa đảo, chiếm đoạt tài sản gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân và làm phức tạp thêm tình hình kinh tế - xã hội.

Ba là, còn tồn tại tư duy ngành, lĩnh vực trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến QTDKD. Chẳng hạn như, pháp luật dân sự, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng đã có những quy định để bảo vệ bên yếu thế trong giao kết hợp đồng như quy định về hợp đồng mẫu, yêu cầu đăng ký hợp đồng mẫu. Tuy nhiên, có thể một số ngành đã và đang cố gắng đưa loại hợp đồng thuộc lĩnh vực của ngành mình ra khỏi danh mục hợp đồng mẫu.

Bốn là, tính cạnh tranh của thể chế pháp luật về QTDKD chưa cao; phản ứng chính sách còn chưa nhanh nhạy, chưa bắt kịp với những biến động của kinh tế thị trường, nhất là trong việc ứng dụng các mô hình kinh doanh mới, cũng như việc ứng dụng các thành tựu công nghệ mới của CMCN 4.0, chưa tạo được khung pháp lý tin cậy cho hoạt động khởi nghiệp sáng tạo. Đâu đó, vẫn còn tình trạng can thiệp hành chính vào hoạt động kinh doanh.

Năm là, hạn chế về thực thi QTDKD cũng phần nào ảnh hưởng đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Hiện tỷ lệ đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP chưa được khai thác hết tiềm năng do nhiều rào cản thể chế. Hiện nước ta có khoảng 930.000 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó 98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 14.400 hợp tác xã và hơn 5 triệu hộ kinh doanh. Năm 2023, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 46% GDP, tạo ra khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút 85% lực lượng lao động, chiếm 35% kim ngạch nhập khẩu và 25% kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, những con số trên vẫn chưa thể hiện hết tiềm lực của khu vực kinh tế tư nhân.

Sáu là, một số quyền liên quan đến QTDKD cho đến nay vẫn chưa được quy định cụ thể, do đó chưa khơi thông được nguồn lực cho phát triển kinh tế như: liên quan đến quyền tài sản đối với một số loại hình tài sản “phi truyền thống”. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các công nghệ mới như: trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data), internet vạn vật (IoT), công nghệ chuỗi khối (blockchain)... và việc ứng dụng của chúng đã làm xuất hiện những loại “tài sản” mới, phi truyền thống: tài sản mã hóa phát triển dựa trên công nghệ chuỗi khối Blockchain; sản phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo (AI) và các dữ liệu cá nhân được tạo ra trên môi trường số.

Cần thể chế hóa quyền tự do kinh doanh nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Từ những vấn đề nêu trên, pháp luật về QTDKD phải được hoàn thiện và được tổ chức thực hiện nghiêm minh để tạo khung khổ pháp lý thuận lợi, an toàn cho các hoạt động đầu tư kinh doanh. Theo đó, bảo đảm các luật thể chế hóa đúng tinh thần: QTDKD là nguyên tắc hiến định, chỉ bị hạn chế trong các trường hợp cần thiết vì lợi ích quốc gia, an ninh, trật tự, đạo đức xã hội.

Cải cách thể chế và cải thiện môi trường kinh doanh: Tiếp tục rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý thủ tục, giảm thiểu chi phí tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp; Rà soát, loại bỏ các điều kiện kinh doanh không cần thiết, giảm rào cản gia nhập thị trường; Tăng cường kiểm soát hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm tránh chồng chéo, gây cản trở hoạt động kinh doanh; Có cơ chế phản ứng chính sách kịp thời đối với những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp và người dân, nhất là những vướng mắc liên quan đến “điểm nghẽn thể chế” cần được xử lý nhanh chóng và thỏa đáng.

Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp: Cải cách hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại, tạo cơ chế trọng tài, hòa giải hiệu quả; Bảo đảm quyền sở hữu tài sản và quyền hợp đồng của doanh nghiệp được bảo vệ bằng hệ thống tư pháp độc lập, hiệu quả; Xây dựng cơ chế bảo vệ doanh nghiệp khỏi các chính sách, quy định thay đổi đột ngột hoặc thiếu minh bạch.

Hoàn thiện khung pháp lý cho một số loại tài sản phi truyền thống như: tài sản số, dữ liệu, tài sản do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, tín chỉ carbon, không gian ngầm,…

Hỗ trợ và khuyến khích đổi mới sáng tạo, áp dụng cơ chế pháp lý “đặc biệt” với những ưu đãi “vượt trội” cho một số lĩnh vực như: kinh tế số, đổi mới sáng tạo (công nghệ tài chính - fintech, trí tuệ nhân tạo, kinh tế nền tảng, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử, thành phố thông minh…). Phát triển hệ thống hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Hình thành một số “đặc khu kinh tế”, “khu vực nghiên cứu phát triển (R&D) đặc biệt” với cơ chế pháp lý “đặc biệt”: Ưu đãi về thuế, có chính sách hỗ trợ tài chính, hỗ trợ cơ sở vật chất, hỗ trợ nhân lực, chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư,…

Xây dựng và áp dụng sandbox (thử nghiệm có kiểm soát) triển khai và ứng dụng các công nghệ mới, cho phép thử nghiệm các hoạt động kinh doanh sáng tạo trong phạm vi và thời gian xác định, dưới sự giám sát của các nhà quản lí để đánh giá, kiểm nghiệm và điều chỉnh trước khi trở thành chính sách chung.

Để phát huy tối đa hiệu quả của sandbox, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lí, cộng đồng khởi nghiệp và các nhà đầu tư. Việc xây dựng một cơ sở dữ liệu về sandbox, tổ chức các diễn đàn, hội thảo và hỗ trợ các startup (khởi nghiệp) tiếp cận nguồn lực là những giải pháp cần thiết để hoàn thiện cơ chế này. Trong bối cảnh khung pháp lý thường đi sau thực tế, việc cho áp dụng sandbox chính là phản ứng chính sách/cách ứng xử của cơ quan nhà nước đối với những công nghệ mới.

TS. Chu Thị Hoa

Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý

Bộ Tư pháp

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/the-che-hoa-quyen-tu-do-kinh-doanh-gop-phan-kien-tao-moi-truong-phat-trien-dot-pha-va-khoi-thong-nguon-luc-post541286.html