Thị trường Halal: Cánh cửa tỷ đô và yêu cầu mới về an toàn thực phẩm

Thị trường Halal toàn cầu trị giá hơn 7.000 tỷ USD đang trở thành một 'điểm đến chiến lược' của nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, để bước chân vững vàng vào thị trường này, doanh nghiệp Việt, đặc biệt là các hợp tác xã cần nhìn nhận chứng nhận Halal không chỉ là giấy phép thương mại, mà là tấm hộ chiếu thương hiệu gắn liền với niềm tin, minh bạch và tiêu chuẩn quốc tế.

Tại Hội nghị “Phổ biến các quy định và cam kết về an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật (SPS) trong Hiệp định VIFTA, CEPA” diễn ra sáng 23/10 tại Đồng Nai, các chuyên gia và cơ quan quản lý khẳng định: thị trường Halal đang mở ra một không gian kinh tế mới cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập sâu với các hiệp định thương mại thế hệ mới, nơi chất lượng, an toàn và truy xuất nguồn gốc trở thành “chìa khóa” để hội nhập.

Halal: Chuẩn mực kép về chất lượng và niềm tin

Tiến sĩ Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam, nhấn mạnh: “Các biện pháp SPS là bắt buộc và doanh nghiệp phải tuyệt đối tuân thủ. Chỉ một sai sót nhỏ, như chậm cập nhật mã số xuất khẩu, cũng có thể khiến hàng hóa bị đóng cửa nhập khẩu.”

Theo ông Nam, ngoài yêu cầu về chất lượng, doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý tới dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kháng sinh và khả năng truy xuất nguồn gốc nguyên liệu. Những vi phạm này có thể dẫn đến việc hàng hóa bị trả lại, cảnh báo quốc tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín quốc gia và năng lực xuất khẩu.

Để hỗ trợ doanh nghiệp, Văn phòng SPS Việt Nam đã xây dựng Cổng thông tin SPS quốc gia, cập nhật quy định mới nhất và tổ chức các khóa tập huấn nâng cao năng lực, đặc biệt cho nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, những đơn vị còn hạn chế trong việc tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế.

Thị trường Halal toàn cầu trị giá hơn 7.000 tỷ USD đang trở thành một “điểm đến chiến lược” của nông sản Việt Nam.

Thị trường Halal toàn cầu trị giá hơn 7.000 tỷ USD đang trở thành một “điểm đến chiến lược” của nông sản Việt Nam.

Theo ông Nam, thị trường Halal không chỉ giới hạn ở thực phẩm, mà còn mở rộng sang mỹ phẩm, dược phẩm, logistics và du lịch. Trong đó, Halal được xem như “chuẩn kép” vì ngoài việc đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm (GMP, HACCP, ISO), doanh nghiệp còn phải đảm bảo quy trình phù hợp với quy định đạo Hồi, từ nguyên liệu, sản xuất, đóng gói đến vận chuyển và bảo quản.

Phó Chánh Văn phòng Bộ NN&MT Lê Viết Bình cho rằng, Halal là thị trường đầy tiềm năng cần được “hâm nóng” bằng truyền thông và hành động chính sách cụ thể: “Việt Nam có thể đạt 70 tỷ USD xuất khẩu nông sản trong năm 2025 và hướng tới 100 tỷ USD trong tương lai gần. Để chinh phục thị trường Halal, doanh nghiệp phải xem SPS là tấm ‘hộ chiếu xanh’ bắt buộc.”

Từ góc độ chính sách, ông Nguyễn Thành Duy, Phó Vụ trưởng Vụ Trung Đông, Châu Phi (Bộ Ngoại giao), khẳng định Halal không chỉ là chứng nhận tôn giáo mà đã trở thành tiêu chuẩn sống xanh, sạch và có đạo đức, bao trùm nhiều lĩnh vực từ thực phẩm, mỹ phẩm, du lịch đến tài chính. Việt Nam hiện có tiềm năng lớn trong bốn lĩnh vực Halal trọng điểm: nông sản, thực phẩm, du lịch và dược mỹ phẩm. Tuy nhiên, để thâm nhập hiệu quả, cần hài hòa hóa tiêu chuẩn Halal với các biện pháp SPS quốc tế, đồng thời sớm ban hành Nghị định về sản phẩm và dịch vụ Halal để thống nhất quản lý.

Ông Duy cho biết, Bộ Ngoại giao và Bộ Khoa học Công nghệ đang phối hợp xây dựng bộ tiêu chuẩn Halal quốc gia và thiết lập Trung tâm Chứng nhận Halal Quốc gia đầu tiên tại Việt Nam, nhằm giúp doanh nghiệp dễ dàng chứng nhận, giảm chi phí và thúc đẩy xuất khẩu. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã đàm phán thỏa thuận công nhận lẫn nhau về chứng nhận Halal với các nước Hồi giáo, tạo điều kiện để sản phẩm Việt được lưu thông thuận lợi hơn trên thị trường này.

Doanh nghiệp Việt: Từ bị động sang chủ động chuẩn hóa Halal

Theo ông Lê Châu Hải Vũ, Giám đốc công ty tư vấn DN Consul Tech, Phó Chủ tịch Câu lạc bộ Doanh Nông Việt Nam, Việt Nam là quốc gia xuất khẩu nông sản đứng thứ 18 thế giới, nhưng vẫn chưa lọt vào top 20 nước xuất khẩu sang thị trường Hồi giáo. Đây chính là dư địa lớn để Việt Nam “đi tắt đón đầu”, khai thác tiềm năng xuất khẩu hàng trăm tỷ USD mỗi năm.

Ông nhấn mạnh, “Doanh nghiệp Việt cần coi chứng nhận Halal là khoản đầu tư chiến lược, chứ không phải chi phí”. Bởi khi đã đạt chuẩn Halal, sản phẩm không chỉ tiếp cận hơn 2 tỷ người tiêu dùng Hồi giáo mà còn chinh phục người tiêu dùng ngoài khối nhờ độ tin cậy cao.

Thực tế cho thấy, 97-98% doanh nghiệp Việt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs), trong đó HTX chiếm tỷ trọng đáng kể trong chuỗi cung ứng nông sản. Tuy nhiên, đa số còn thiếu thông tin, e ngại chi phí chứng nhận, hoặc chưa nhận thức đầy đủ về tiềm năng của thị trường Halal.

Nhiều doanh nghiệp vẫn xem “chứng nhận” là rào cản, thay vì “đòn bẩy cạnh tranh”. Ông Vũ chỉ rõ: “Nếu doanh nghiệp tiếp cận Halal bằng tư duy chi phí, họ sẽ bỏ lỡ cơ hội. Nhưng nếu nhìn đó là đầu tư, họ sẽ mở cánh cửa bước vào chuỗi giá trị toàn cầu”.

Đặc biệt, các HTX, lực lượng nền tảng của kinh tế nông nghiệp Việt Nam, có thể đóng vai trò trung gian tổ chức vùng trồng, truy xuất nguồn gốc và chuẩn hóa quy trình sản xuất, giúp giảm chi phí và tăng năng lực cạnh tranh khi xin chứng nhận Halal.

Ông Vũ cho biết, một số tỉnh như Tây Ninh và Lâm Đồng đã tiên phong hỗ trợ doanh nghiệp xin chứng nhận Halal miễn phí hoặc trợ giá 50%. Đây là mô hình cần được nhân rộng tại các địa phương, đặc biệt ở Đồng Nai, Long An, Bình Dương, Tiền Giang, nơi tập trung nhiều HTX chế biến, xuất khẩu nông sản.

Đại diện Công ty Cổ phần Thực phẩm CocoVina, đơn vị trực thuộc G.C Food, cho biết doanh nghiệp đã có chứng nhận Halal gần 10 năm và đang xuất khẩu sang Malaysia và Indonesia. Tuy nhiên, chi phí duy trì chứng nhận là gánh nặng đáng kể: “Hàng năm, doanh nghiệp phải tái chứng nhận định kỳ, chi phí trên 50 triệu đồng cho mỗi lần. Ngoài ra, còn có chi phí đánh giá, kiểm định định kỳ theo yêu cầu của tổ chức Halal quốc tế.”

Doanh nghiệp này đặt câu hỏi liệu hiện nay Bộ Nông nghiệp và Môi trường có chính sách thuế hoặc ưu đãi thương mại nào dành cho sản phẩm đã đạt chứng nhận Halal, và có chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp, thực phẩm đạt chứng nhận này hay không. Đây là vấn đề được nhiều doanh nghiệp cùng quan tâm, bởi chứng nhận Halal không chỉ là yêu cầu kỹ thuật mà còn là “giấy thông hành” bắt buộc để nông sản Việt Nam tiếp cận các thị trường Hồi giáo.

Đại diện Công ty Koyu & Unitek, chuyên chăn nuôi và chế biến thịt gà, chia sẻ thực tế khó khăn hơn. Từ năm 2023 đến nay, công ty đã bỏ lỡ ít nhất 5 cơ hội xuất khẩu sang Brunei và Ả Rập Xê Út do không đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường Halal.

Theo bà Phạm Tố Uyên, đại diện công ty, có ba nhóm rào cản chính: (1) Rào cản kỹ thuật tại nông trại, khi khách hàng chỉ chấp nhận gà có trọng lượng 1-1,5 kg trong khi nông dân trong nước thường nuôi tới 2,5 kg, dẫn đến khó đáp ứng đơn hàng; (2) Khó khăn về nhân lực Hồi giáo trong khâu giết mổ và chế biến, do “thiếu người vừa có kỹ năng cắt tiết đúng quy chuẩn Halal, vừa có hiểu biết về quy trình tôn giáo”; và (3) Chi phí chứng nhận và kiểm nghiệm cao, riêng chi phí chứng nhận Halal cho nhà máy giết mổ có thể lên tới 500 triệu đồng, chưa kể chi phí kiểm nghiệm định kỳ.

Đáng chú ý, bà Uyên cũng nêu rõ, nhiều chỉ tiêu kiểm nghiệm thuốc thú y bắt buộc theo quy định của các nước Trung Đông “hiện chưa được thực hiện tại Việt Nam do thiếu phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO 17025”. Một số chỉ tiêu theo Thông tư 243 và Thông tư 18/2024 của Bộ NN&Môi trường cũng chưa thể kiểm được trong nước, gây trở ngại lớn cho doanh nghiệp khi làm hồ sơ xuất khẩu.

Cơ hội lớn, rào cản kỹ thuật càng lớn

Trước những phản ánh này, các chuyên gia và cơ quan quản lý đều cho rằng bên cạnh yếu tố chính sách, doanh nghiệp cần thay đổi cách tiếp cận thị trường Halal theo hướng chủ động và chiến lược.

Ông Vũ, nhận định: “Nhiều vấn đề doanh nghiệp coi là rào cản thực chất lại thuộc về mô hình kinh doanh và cách tổ chức sản xuất. Thị trường nào cũng có yêu cầu riêng. Nếu doanh nghiệp xác định thị trường đủ lớn, đủ tiềm năng, thì việc đầu tư cải thiện quy trình, thuê nhân lực phù hợp hay hợp tác với đối tác kiểm định quốc tế đều là khoản đầu tư hợp lý.” Ông cũng nhấn mạnh rằng “không thể coi mọi yêu cầu kỹ thuật là rào cản, mà cần xem đó là chuẩn mực để nâng cấp năng lực cạnh tranh”.

Thị trường Hồi giáo toàn cầu chia thành ba khu vực chính: Đông Nam Á, Trung Đông Bắc Phi, và Nam Á (Ấn Độ, Pakistan). Tuy nhiên, mỗi khu vực lại yêu cầu chứng nhận Halal riêng biệt, từ GCC (vùng Vịnh), Malaysia đến Indonesia, khiến doanh nghiệp muốn xuất khẩu đa thị trường phải chịu chi phí gấp ba lần để xin các giấy phép khác nhau.

Bên cạnh đó, tiêu chuẩn ghi nhãn Halal của UAE và Israel cũng đặt ra yêu cầu chặt chẽ: từ khâu phê duyệt nhãn trước xuất khẩu, in nổi ngày sản xuất, cho đến dán nhãn đỏ, xanh phản ánh hàm lượng chất béo, đường và natri.

Theo bà Tôn Nữ Thục Uyên, Quyền Giám đốc TBT Việt Nam, nhiều doanh nghiệp Việt vẫn lúng túng khi đối mặt với rào cản kỹ thuật (TBT) và biện pháp kiểm dịch động, thực vật (SPS). Việc nắm vững quy định và tham gia góp ý dự thảo tiêu chuẩn quốc tế ngay từ đầu sẽ giúp Việt Nam tránh bị động trong xuất khẩu nông sản sang các nước Hồi giáo.

Đại diện chính quyền địa phương, bà Nguyễn Thị Tuyết, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Nai, thừa nhận, phần lớn doanh nghiệp trên địa bàn vẫn gặp khó khăn về vốn và quyết tâm đầu tư khi tiếp cận thị trường Halal. Bà cho biết: “Đồng Nai hiện có một số doanh nghiệp đạt chứng nhận Halal, nhưng số lượng sản phẩm thực sự xuất khẩu được sang các nước Hồi giáo vẫn còn rất ít. Khó khăn lớn nhất là nguồn vốn và sự quyết tâm của doanh nghiệp để chinh phục thị trường này.”

Bà Tuyết cũng thông tin, tỉnh đang xây dựng chính sách hỗ trợ riêng cho doanh nghiệp đạt chứng nhận Halal, bên cạnh các chính sách hiện có đối với chứng nhận hữu cơ (Organic) và VietGAP. Trong đó, nguồn vốn hỗ trợ đổi mới khoa học kỹ thuật của tỉnh có thể được sử dụng để cho doanh nghiệp vay không lãi suất, hỗ trợ chi phí tư vấn, chứng nhận và đào tạo. “Đây sẽ là cú hích ban đầu để doanh nghiệp tự tin bước vào thị trường Halal”, bà nhấn mạnh.

Đại diện Văn phòng SPS Việt Nam, ông Ngô Xuân Nam, khẳng định: “Với trách nhiệm của cơ quan đầu mối quốc gia về SPS, chúng tôi sẽ phối hợp cùng Sở Nông nghiệp Đồng Nai tổng hợp các ý kiến, báo cáo Bộ NN&MT để đề xuất chính sách hỗ trợ phù hợp.” Ông nhấn mạnh, mục tiêu chung là thúc đẩy xuất khẩu nông sản, thực phẩm Việt Nam sang thị trường Halal thông qua việc phổ biến, hướng dẫn doanh nghiệp nắm rõ các quy định và tiêu chuẩn của thị trường này.

Phụng Tiên

Nguồn Vnbusiness: https://vnbusiness.vn/viet-nam/thi-truong-halal-canh-cua-ty-do-va-yeu-cau-moi-ve-an-toan-thuc-pham-1110358.html