Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 31/5-7/6: Giá dầu phục hồi, vàng tiếp tục giảm, ca cao và cà phê ngược chiều

Kết thúc tuần giao dịch đầu tiên của tháng 6 (từ 31/5-7/6), trong khi giá dầu tăng trở lại thì vàng tiếp tục đi xuống, ca cao cũng duy trì đà tăng, còn cà phê lại giảm, trong khi mặt hàng nông sản đồng loạt đi lên…

Năng lượng: Giá dầu tăng gần 3%, khí LNG tăng 10%

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới tăng vào thứ Sáu (6/6), ghi nhận mức tăng hàng tuần đầu tiên trong 3 tuần sau báo cáo việc làm thuận lợi của Mỹ.

Cụ thể, dầu thô Brent tăng 1,13 USD (+1,73%) lên 66,47 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) tăng 1,21 USD/thùng (+1,91%) lên 64,58 USD/thùng. Tính cả tuần, dầu Brent tăng 2,75% và dầu WTI tăng 4,9%, qua đó ngắt chuỗi giảm 2 tuần liên tiếp.

Báo cáo việc làm hàng tháng của Bộ Lao động Mỹ cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp ổn định ở mức 4,2% vào tháng 5. Các nhà tuyển dụng bổ sung 139.000 việc làm.

Vào thứ Bảy, Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ và các đồng minh (OPEC+) bao gồm Nga, đã đồng ý tăng sản lượng thêm 411.000 thùng mỗi ngày (bpd) đã công bố trước đó vào tháng 7.

Số lượng giàn khoan dầu khí của Mỹ, một chỉ báo sớm về sản lượng trong tương lai, đã giảm 4 giàn xuống 559 giàn trong tuần tính đến ngày 6/6/2025 - mức thấp nhất kể từ tháng 11/2021, Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes cho biết. Số lượng giàn khoan dầu đã giảm 9 giàn xuống 442 giàn trong tuần qua, trong khi số lượng giàn khoan khí đốt tăng 5 giàn lên 114 giàn, Baker Hughes thông tin.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ tăng lên mức cao nhất 4 tuần vào ngày 6/6, do dự kiến thời tiết nóng sẽ khiến các doanh nghiệp tăng sử dụng máy điều hòa, thúc đẩy nhu cầu điện chạy bằng khí đốt, ngay cả khi một số nhà máy xuất khẩu LNG ngừng hoạt động để bảo dưỡng.

Cụ thể, giá LNG kỳ hạn tháng 7/2025 trên sàn New York tăng 10,7 US cent (+2,9%) lên 3.784 USD/mmBTU - mức cao nhất kể từ ngày 9/5/2025. Tính chung cả tuần, giá LNG tăng 10% sau khi tăng 3% trong tuần trước đó.

Kim loại: Vàng và quặng sắt tăng giá, đồng giảm

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm trong phiên 6/6 sau báo cáo số liệu việc làm của Mỹ cao hơn so với dự kiến, làm giảm kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất trong năm nay.

Cụ thể, vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 1,1% về 3.316,13 USD/ounce, nhưng vẫn có tuần tăng 0,8%. Vàng kỳ hạn tháng 8/2025 trên sàn New York giảm 0,87% xuống 3.346,6 USD/ounce.

Báo cáo của Bộ Lao động Mỹ cho thấy bảng lương phi nông nghiệp trong tháng 5/2025 tăng 139.000 việc làm, so với ước tính tăng 130.000 việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4,2% - phù hợp với ước tính.

Vàng được coi là công cụ chống lại lạm phát và bất ổn địa chính trị. Tuy nhiên, lãi suất cao làm giảm sức hấp dẫn của vàng thỏi.

Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,5% về 35,96 USD/ounce, sau khi đạt mức cao nhất hơn 13 năm trong đầu phiên giao dịch. Giá bạch kim tăng 2,5% lên 1.158,2 USD/ounce - cao nhất kể từ tháng 3/2022.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng giảm do USD tăng mạnh và CNY suy yếu, trong khi tồn trữ tại London giảm và lo ngại về nguồn cung trong ngắn hạn đã hạn chế đà suy giảm giá.

Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London (LME) giảm 0,5% xuống 9.686,5 USD/tấn. Trong phiên trước đó, giá đồng đạt 9.809,5 USD/tấn - cao nhất hơn 2 tháng.

Lượng đồng dự trữ trên sàn LME đã giảm xuống còn 138.000 tấn - mức thấp nhất trong gần 1 năm qua và giảm gần một nửa từ đầu năm tới nay.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng lên mức cao nhất 1 tuần, được thúc đẩy bởi tiến triển trong các cuộc đàm phán Mỹ - Trung và nhu cầu vững từ nước tiêu thụ hàng đầu là Trung Quốc, song tiêu thụ thép theo mùa chậm lại đã hạn chế đà tăng.

Cụ thể, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2025 trên sàn Đại Liên tăng 0,86% lên 707,5 CNY (98,48 USD)/tấn, trong phiên có lúc đạt 713,5 CNY/tấn - mức cao nhất kể từ ngày 26/5/2025. Tính chung cả tuần, giá quặng sắt tăng 0,6%.

Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2025 trên sàn Singapore tăng 0,9% lên 95,7 USD/tấn. Trong đầu phiên giao dịch, giá quặng sắt đạt 96,4 USD/tấn - cao nhất kể từ ngày 29/5/2025 và tính cả tuần giá tăng 0,1%.

Trên sàn Thượng Hải (SHFE), giá thép cây tăng 0,57%; thép cuộn cán nóngthép cuộn tăng 0,55%; trong khi thép không gỉ giảm 0,16%.

Nông sản: Cùng tăng giá

Giá lúa mì tương lai trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) tăng trong phiên giao dịch thứ ba liên tiếp vào thứ Sáu, nhờ căng thẳng giữa 2 nhà xuất khẩu lớn là Nga và Ukraine, cùng với sự chậm trễ trong thu hoạch tại Mỹ do điều kiện thời tiết không thuận lợi. Các nhà đầu tư đã tích cực đóng vị thế bán nhằm tránh rủi ro cuối tuần.

Cụ thể, hợp đồng lúa mì mùa Đông đỏ mềm giao tháng 7 (WN25) tăng 9,25 cent lên 5,5475 USD/giạ, trong phiên từng mức 5,5575 USD/giạ - cao nhất kể từ ngày 21/5/2025; lúa mì cứng đỏ mùa Đông KC tháng 7 (KWN25) tăng 6,75 cent lên 5,4925 USD/giạ; lúa mì Xuân Minneapolis tháng 7 (MWEN25) tăng 10 cent lên 6,3525 USD/giạ.

Căng thẳng tại khu vực Đông Âu tiếp tục leo thang khi Nga tiến hành các cuộc tấn công bằng tên lửa và máy bay không người lái nhằm vào thủ đô Kyiv, khiến ít nhất 4 người thiệt mạng.

Tại vùng đồng bằng miền Nam Mỹ, Cơ quan Thời tiết quốc gia Mỹ đã phát cảnh báo lũ lụt trên khu vực Oklahoma, ảnh hưởng đến tiến độ thu hoạch lúa mì Đông.

Ở châu Âu, giá lúa mì tương lai trên Sàn Euronext cũng tăng trong bối cảnh đồng euro giảm so với USD, đồng thời sàn CBOT ghi nhận xu hướng tăng giá. Romania dự kiến sẽ có vụ mùa lúa mì kỷ lục nhờ lượng mưa dồi dào phục hồi từ hạn hán năm trước.

Trong khi đó, Bộ Nông nghiệp Ukraine cảnh báo xuất khẩu ngũ cốc mùa vụ 2025-2026 có thể giảm xuống 35 triệu tấn trong trường hợp xấu, so với mức 40 triệu tấn của vụ trước do sản lượng thu hoạch giảm.

Giá ngô tương lai trên sàn CBOT tăng nhẹ do thời tiết dự báo ấm và khô hơn tại vùng Trung Tây Mỹ, đồng thời được hỗ trợ bởi tin tức tích cực từ cuộc điện đàm giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhằm giải quyết tranh chấp thương mại. Cụ thể, hợp đồng ngô tháng 7 (CN25) tăng 3 cent lên 4,425 USD/giạ.

Theo chuyên gia phân tích, điều kiện thời tiết nắng nóng giữa tháng 6 có thể ảnh hưởng tiêu cực đến vụ ngô và đậu nành. Ngoài ra, các trợ lý cấp cao của Tổng thống Trump sẽ tiếp tục đàm phán với phía Trung Quốc tại London vào đầu tuần tới, nhằm tháo gỡ căng thẳng thương mại đang tạo áp lực lên thị trường toàn cầu. Trung Quốc hiện là nhà nhập khẩu đậu nành lớn nhất thế giới.

Dữ liệu gần đây cho thấy các nhà đầu cơ lớn đã tăng cường vị thế bán ròng đối với hợp đồng ngô tương lai CBOT trong tuần kết thúc ngày 3/6/2025. Bộ Nông nghiệp Mỹ dự kiến công bố báo cáo đánh giá tình trạng cây trồng ngô và đậu nành vào hôm nay (9/6/2025).

Giá đậu tương tương lai trên sàn CBOT tăng nhờ triển vọng cải thiện quan hệ thương mại Mỹ - Trung và đà tăng của giá dầu đậu nành. Cụ thể, hợp đồng đậu tương tháng 7 (SN25) tăng 5,5 cent (+0,5%) lên 10,5725 USD/giạ. Giá bột đậu nành tháng 7 (SMN25) giảm 1,40 USD xuống 295,70 USD/tấn, trong khi giá dầu đậu nành tháng 7 (BON25) tăng 0,85 cent (1,8%) lên 47,50 cent/pound, đạt đỉnh trong tuần.

Dầu đậu nành được hỗ trợ bởi mức tăng 1 USD/thùng của giá dầu thô tương lai (CL1!) và kỳ vọng nhu cầu nhiên liệu sinh học tại Mỹ tăng cao.

Sàn giao dịch ngũ cốc Rosario cho biết, sản lượng đậu tương của Argentina vẫn cao hơn dự kiến dù tiến độ thu hoạch chậm hơn bình thường.

Trong khi đó, Cục Hải quan Bắc Kinh cho phép nhập khẩu bột hạt cải và bột đậu nành từ Uruguay để đa dạng hóa nguồn cung và tăng cường an ninh lương thực.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá ca cao, dầu cọ đi lên, cà phê giảm, cao su và đường biến động trái chiều

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua (6/6), giá đường thô (SB1!) trên sàn ICEgiảm 0,08 cent (0,5%) xuống 16,49 cent/lb, ghi nhận mức thấp nhất kể từ tháng 6/2021 khi chạm đáy 16,32 cent/lb vào cuối tuần qua và cả tuần giảm 3,2%. Nguyên nhân chính đến từ triển vọng mùa màng tích cực tại các nước sản xuất chủ lực châu Á như Ấn Độ và Thái Lan, được hỗ trợ bởi gió mùa đến sớm và lượng mưa vượt trung bình.

Ngược lại, giá đường trắng (SF1!) tăng nhẹ 0,4% lên 465,20 USD/tấn.

BMI dự báo sản lượng đường Ấn Độ niên vụ 20252026 sẽ tăng mạnh, đồng thời Brazil đẩy nhanh thu hoạch mía do lượng mưa giảm gần đây. Bên cạnh đó, xuất khẩu đường Brazil tháng 5 giảm 19,5% so với cùng kỳ năm trước, chỉ đạt 2,25 triệu tấn. Giá năng lượng giảm cũng góp phần làm giá đường giảm, bởi mía Brazil có thể dùng để sản xuất ethanol sinh học thay thế.

Cà phê Robusta (RC2!) giảm mạnh 106 USD (-2,4%) xuống 4.339 USD/tấn, từng chạm đáy 9,5 tháng là 4.235 USD/tấn vào đầu tuần. Việt Nam - nhà sản xuất robusta lớn nhất thế giới - xuất khẩu 813.000 tấn cà phê trong 5 tháng đầu năm, giảm 1,8% so với cùng kỳ năm trước.

Cà phê Arabica (KC1!) giảm 0,5% xuống 3,5805 USD/pound, dù trước đó có đà tăng hơn 4%. Thị trường Arabica phục hồi nhờ lượng tồn kho Brazil tại châu Âu giảm mạnh, giúp giá tăng 4,5% trong tuần. Colombia báo cáo sản lượng cà phê Arabica đã rửa tháng 5 giảm 27% so với cùng kỳ năm trước.

Giá ca cao London (C1!) tăng 225 pound (+3,4%) lên 6.837 pound/tấn, trong khi ca cao New York (CC1!) tăng 1,8% lên 10.259 USD/tấn. Cả 2 thị trường đều ghi nhận vị thế tăng 5% trong tuần do sự biến động cao, tạo đà tăng giá rõ nét.

Giá cao su tại Nhật Bản tăng lên mức cao nhất 1 tuần, được hỗ trợ bởi kỳ vọng căng thẳng thương mại Mỹ - Trung giảm bớt. Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 11/2025 trên sàn Osaka tăng 1,9 JPY (+0,6%) lên 294,3 JPY (2 USD)/kg. Trong đầu phiên, giá cao su đạt 297,3 JPY/kg - cao nhất kể từ ngày 30/5/2025. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá cao su giảm 0,2% trong bối cảnh nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu suy yếu.

Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2025 trên sàn Thượng Hải tăng 95 CNY lên 13.650 CNY (1.900 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 7/2025 trên sàn Singapore tăng 0,4% lên 160,4 US cent/kg.

Giá dầu cọ tại Malaysia tăng và có tuần tăng thứ 4 liên tiếp, bất chấp lo ngại sản lượng và tồn trữ tăng. Cụ thể, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 8/2025 trên sàn Bursa Malaysia tăng 14 ringgit (+0,36%) lên 3.917 ringgit (926,88 USD)/tấn và cả tuần tăng 1,01%.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/thi-truong-hang-hoa-the-gioi-tuan-tu-315-76-gia-dau-phuc-hoi-vang-tiep-tuc-giam-ca-cao-va-ca-phe-nguoc-chieu-post370907.html