ThS. KTS Nguyễn Thu Phong: Xây dựng TP.HCM 'khỏe mạnh' cần mô hình phù hợp

TP.HCM đang đối mặt với hàng loạt thách thức: Nền đất bị sụt lún trung bình 2 - 5 cm mỗi năm, trong khi mực nước biển dâng khoảng 1 cm, quá trình đô thị hóa nhanh dẫn đến mật độ dân cư rất cao, nhiều mảng xanh bị thu hẹp, hệ thống giao thông quá tải. Đặc biệt, việc hợp nhất TP.HCM với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu tạo ra một siêu đô thị mới, đặt ra bài toán cần tái tổ chức không gian và mô hình quản lý vùng phù hợp.

Trước thực trạng này, Th-S.KTS Nguyễn Thu Phong - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Nhà Vui, Phó Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam đã gợi mở các giải pháp chiến lược giúp TP.HCM phát triển bền vững, giữ vững chất lượng sống và bản sắc đô thị...

* Thưa ông, TP.HCM đang phải đối mặt cùng lúc với nhiều thách thức nghiêm trọng như đã kể trên, những vấn đề này ảnh hưởng như thế nào đến “sức khỏe” của đô thị?

- Trước hết, khái niệm “đô thị khỏe” nghĩa là thành phố có khả năng chống chịu và thích ứng tốt với các thách thức nội tại và bên ngoài. Hiện nay, đúng là TP.HCM đang chịu những áp lực rất lớn từ môi trường tự nhiên lẫn quá trình phát triển. Hiện tượng sụt lún đất, mực nước biển dâng và những đợt triều cường, mưa lớn kỷ lục đang làm cho “cơ thể” đô thị vốn đã có vấn đề lại càng dễ bị “tắc nghẽn”. Khi mưa lớn gây ngập mà hệ thống thoát nước không đáp ứng, hoặc khi nền đất yếu sụt lún, hậu quả là nhiều khu vực bị ngập úng kéo dài, giao thông tê liệt. Những “căn bệnh” này không chỉ xảy ra cục bộ mà còn lây lan sang các khu vực khác, ngập ở một nơi có thể dồn nước sang nơi kế cận, kẹt xe ở một nút giao có thể gây ùn tắc cả mạng lưới. Rõ ràng, khi một phần đô thị “ốm yếu” thì toàn bộ cơ thể thành phố cũng bị ảnh hưởng. Chất lượng các công trình xây dựng, đường sá hạ tầng và đời sống của người dân đều đang chịu tổn hại nghiêm trọng.

* Vậy Thành phố cần làm gì để trở thành một đô thị có sức khỏe bền vững, theo quan điểm của ông?

- Để TP.HCM trở thành một đô thị có sức khỏe bền vững, cần một tầm nhìn nghiêm túc, bài bản và dài hạn. Chúng ta không thể phát triển bằng mọi giá, đặc biệt là kiểu "phát triển đánh đổi lấy lợi nhuận bất động sản ngắn hạn" ở những vùng rủi ro. Những lợi ích trước mắt đó tuy hấp dẫn, nhưng về lâu dài, cái giá phải trả là quá đắt cho cả cộng đồng và thành phố phải gánh chịu về sau: Người dân sẽ phải sống trong khu vực hạ tầng không đảm bảo, môi trường không bền vững, giao thông thường xuyên tắc nghẽn, ngập lụt...

Vì vậy, ngay bây giờ chúng ta phải chú trọng đến yếu tố “sức khỏe” của đô thị trong quy hoạch và quản lý. Cụ thể, Thành phố cần nghiêm ngặt áp dụng các tiêu chuẩn về kết cấu hạ tầng và sức tải đô thị. Ví dụ như giới hạn mật độ xây dựng dựa trên khả năng của mạng lưới giao thông, cấp điện, cấp thoát nước, cũng như đảm bảo an toàn vệ sinh đô thị. Song song đó, phải đặc biệt chú ý tới hệ thống “phần mềm của đô thị, tức là các mảng xanh, khoảng thở và không gian công cộng. Những không gian này giống như lá phổi của thành phố, giúp điều hòa vi khí hậu, thoát nước, đồng thời tạo môi trường sống lành mạnh cho người dân. Chỉ khi hạ tầng cứng vững chắc và “hạ tầng mềm” dồi dào, Thành phố mới có sức chống chịu tốt trước thiên tai và biến đổi khí hậu.

TP.HCM muốn khỏe mạnh phải phát triển cân bằng và bền vững, thay vì chạy theo tăng trưởng nóng.

KTS Nguyễn Thu Phong

KTS Nguyễn Thu Phong

* TP.HCM hiện có mật độ dân cư rất cao, trong khi diện tích dành cho hạ tầng giao thông, công trình công cộng và không gian xanh lại hạn chế. Ông đánh giá thế nào về thực trạng mất cân bằng giữa phát triển đô thị và không gian xanh, hạ tầng kỹ thuật?

- Đây là vấn đề cốt lõi trong phát triển đô thị hiện đại. Quả thật, nếu mật độ dân cư quá cao và chúng ta lại dành quá nhiều đất cho xây dựng công trình, thì chắc chắn diện tích cho hạ tầng và mảng xanh sẽ bị thu hẹp đáng kể. Tôi cho rằng sẽ không có một “phép màu” hay bài toán nào hóa giải được mâu thuẫn này nếu chúng ta cứ tiếp tục tăng trưởng đô thị theo chiều hướng dồn nén tối đa. Thực tế cho thấy, khi dân số và nhu cầu tăng mà hạ tầng không theo kịp, thành phố sẽ rơi vào vòng xoáy tắc nghẽn giao thông, thiếu trường học, bệnh viện quá tải, công viên thì ít ỏi, chất lượng sống suy giảm rõ rệt.

*Làm sao để Thành phố tránh được tình trạng quá tải hạ tầng và đảm bảo sự cân bằng cần thiết cho đô thị, theo ông?

- Giải pháp cần nhất là phải chọn một tỷ lệ phát triển cân đối. Điều đó có nghĩa là trong quy hoạch, đôi khi chúng ta phải chấp nhận giảm bớt một số chỉ tiêu xây dựng, nhường chỗ cho hạ tầng kỹ thuật và không gian xanh. Ví dụ, không nên cố gắng nhồi nhét quá nhiều cao ốc vào một khu vực nếu đường sá, điện nước chưa đủ tải hoặc chưa bố trí công viên, bãi đỗ xe tương xứng. Thành phố cần quy định chặt chẽ các tỷ lệ giữa diện tích sàn xây dựng và diện tích hạ tầng, cây xanh trên đầu người. Đây là những “chỉ số sức khỏe” của đô thị cần được giám sát thường xuyên. Nếu cân bằng tốt, Thành phố sẽ có “khoảng thở” cho chính mình, đường phố thông thoáng hơn, mưa lớn vẫn thoát nước kịp, người dân cũng có thêm không gian nghỉ ngơi, sinh hoạt.

Tôi nhấn mạnh rằng phát triển đô thị không chỉ tính bằng số tòa nhà hay dự án, mà còn phải tính bằng diện tích vỉa hè, công viên, mặt nước trên mỗi cư dân. Đó mới là thước đo cho một đô thị bền vững.

Đô thị xanh

Đô thị xanh

* Một vấn đề cũng đáng lo ngại, đó là "nhân văn của đô thị". Theo ông, làm thế nào để nâng cao chất lượng sống một cách đồng đều cho mọi tầng lớp dân cư, đúng với tinh thần một Thành phố “đáng sống, văn minh, nghĩa tình”?

- Chất lượng sống đô thị thể hiện rõ nhất ở từng khu phố, từng cộng đồng dân cư. Khi tôi nói về “sức khỏe cục bộ” của đô thị, đó chính là nói về sức khỏe cộng đồng, tức là mức độ hài lòng, tiện nghi trong đời sống hằng ngày của người dân. Chúng ta dễ thấy ở những khu đô thị cao cấp, cư dân được thụ hưởng nhiều tiện ích: Có công viên, sân chơi, phòng sinh hoạt cộng đồng, trường học, nhà trẻ gần nhà... Trong khi đó, tại một số khu tái định cư hoặc nhà ở công nhân, những không gian chung như vậy lại rất thiếu thốn. Đây là điều bất cập, bởi lẽ đô thị văn minh, nhân văn không chỉ dành cho một nhóm người có điều kiện, mà phải hướng đến tất cả mọi người.

Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng sống đồng đều, Thành phố phải đầu tư phát triển mạng lưới không gian xanh và tiện ích công cộng vươn rộng khắp các khu dân cư. Mỗi phường, mỗi khu phố nên có ít nhất một công viên hoặc vườn hoa, có sân chơi thể thao, có trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Trẻ em cần chỗ để vui chơi an toàn, người cao tuổi có nơi tập thể dục, thanh niên có chỗ giải trí lành mạnh. Đồng thời, các dịch vụ thiết yếu như chợ, siêu thị nhỏ, trạm y tế, nhà văn hóa… cũng nên nằm trong bán kính thuận tiện cho cư dân. Khi những nhu cầu cơ bản được đáp ứng ngay tại địa phương, người dân sẽ cảm nhận được sự quan tâm của đô thị đến cuộc sống của họ.

Một yếu tố quan trọng khác là giữ gìn và phát huy tinh thần cộng đồng. TP.HCM xưa nay nổi tiếng là mảnh đất nghĩa tình, nơi người dân tứ xứ đến sinh sống nhưng vẫn gắn kết, đùm bọc lẫn nhau. Chúng ta phải nuôi dưỡng tinh thần đó qua việc thiết kế các không gian khuyến khích giao lưu, gắn bó như sân sinh hoạt chung, phố đi bộ, thư viện công cộng... Khi người dân cảm thấy yêu mến khu phố của mình, tự hào về nơi mình sống, đó chính là thành công lớn về mặt chất lượng sống tinh thần.

Một đô thị khỏe mạnh không chỉ khỏe về hạ tầng vật chất mà còn khỏe về tinh thần, thể hiện qua lối sống nhân văn và cộng đồng gắn kết.

* Với việc không gian đô thị mở rộng sau khi sáp nhập, TP.HCM càng đa dạng về văn hóa, cảnh quan. Theo ông, làm thế nào để bảo tồn và phát huy bản sắc đô thị trong bối cảnh phát triển mới nhưng vẫn củng cố và giữ được bản sắc chung cho siêu đô thị rộng lớn này?

- TP.HCM luôn tự hào với bản sắc “văn minh, nghĩa tình” - một đô thị nhân văn, hào sảng, nơi ai đến cũng cảm thấy có cơ hội và muốn gắn bó. Bản sắc đó hình thành qua nhiều thập kỷ và phải tiếp tục được xem là nền tảng tinh thần cho tương lai. Dù Thành phố có mở rộng đến đâu, chúng ta cũng không nên đánh mất những giá trị cốt lõi như tính năng động, thân thiện, nghĩa tình trong văn hóa ứng xử đô thị. Những giá trị này cần được thể hiện cả trong quy hoạch. Ví dụ đặt tên các khu đô thị mới, các công trình công cộng sao cho gợi nhớ lịch sử, văn hóa địa phương; hoặc lồng ghép tác phẩm nghệ thuật công cộng, biểu tượng văn hóa Sài Gòn xưa vào không gian mới.

Mặt khác, khi TP.HCM mở rộng địa giới, chúng ta lại có cơ hội làm giàu thêm bản sắc đô thị nhờ sự đa dạng của các vùng sáp nhập. Hiếm có thành phố nào mà trong lòng nó vừa có biển, có núi, lại có cả rừng và đồng bằng như TP.HCM mới của chúng ta. Từ Cần Giờ có biển, đến Củ Chi có đồng ruộng, giờ còn có thêm núi Dinh, núi Lớn, núi Nhỏ, hồ Dầu Tiếng, và những cánh rừng cao su, rừng phòng hộ ở khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương. Mỗi vùng đất này đều ẩn chứa những nét văn hóa, cảnh quan rất đặc trưng và thú vị. Chẳng hạn, một phường ở Thủ Dầu Một hay một xã ở Đất Đỏ vốn có lối sống, nếp sinh hoạt khác với nội đô Sài Gòn trước đây. Bây giờ nhập về một nhà, chúng ta có điều kiện gìn giữ những nét riêng đó như các mảnh ghép đa sắc trong bức tranh chung.

Tôi nghĩ bản sắc chung của đại đô thị TP.HCM sẽ không phải là sự đồng nhất cứng nhắc, mà là sự đa dạng trong thống nhất. Tức là, chúng ta có một tầm nhìn chung về thành phố văn minh, hiện đại, đáng sống, nhưng đồng thời tôn trọng và phát huy bản sắc riêng của từng tiểu vùng, từng cộng đồng.

Điều quan trọng là phải đưa triết lý này vào quy hoạch và quản lý. Mỗi khu vực phát triển nên được định vị một chủ đề bản sắc dựa trên thế mạnh địa phương. Ví dụ, khu ven sông nước có thể nhấn mạnh văn hóa sông nước Nam Bộ, khu ven biển thì phát huy bản sắc làng chài, du lịch biển, còn vùng đồi núi có thể nhấn vào sinh thái rừng và văn hóa nông nghiệp xưa. Khi bản sắc địa phương được tôn trọng, người dân địa phương sẽ tự hào và tích cực giữ gìn. Đồng thời, du khách hay người nhập cư đến các khu vực đó cũng cảm nhận được sự độc đáo, không lẫn lộn. Một đô thị lớn mà mỗi nơi mỗi vẻ, liên kết hài hòa với nhau, đó chính là một đô thị hấp dẫn và bền vững về văn hóa.

* Ông cho rằng, việc tổ chức đô thị ở cấp phường, xã được xem như những “hạt nhân” phục vụ người dân. Mỗi đơn vị hành chính của TP.HCM đều tương đương một đô thị nhỏ. Vậy mô hình tổ chức đô thị ở cấp cơ sở cần đổi mới ra sao để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân địa phương trong bối cảnh mới, thưa ông?

- Sau mở rộng, TP.HCM có quy mô rất lớn, nên cấp phường, xã sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng như những “mắt xích” gần dân nhất. Hiện nay toàn thành phố có trên 100 phường, xã, mỗi nơi quản lý hàng chục nghìn dân, tương đương dân số một thị trấn. Nếu mỗi phường được quy hoạch, đầu tư bài bản để “tự cung tự cấp” ở mức độ cơ bản, nghĩa là người dân ở ngay trong phường mình có thể tìm thấy trường học cho con, trạm y tế khám chữa bệnh, chợ và siêu thị mini mua sắm, công viên để tập thể dục, nhà văn hóa để họp hành sinh hoạt… thì gánh nặng sẽ giảm bớt cho các tuyến trên, đồng thời nâng cao chất lượng sống tại chỗ cho cư dân.

Muốn vậy, Thành phố cần xây dựng bộ tiêu chí hoặc thiết chế hạ tầng cơ bản cho cấp phường, xã. Ví dụ, một phường đô thị tối thiểu phải có bao nhiêu mét vuông công viên, bao nhiêu giường bệnh, số trường mầm non, tiểu học trên mỗi nghìn dân… để đảm bảo phục vụ nhu cầu hàng ngày, hàng tuần của người dân. Tương tự, với các xã nông thôn mới nhập vào, cũng cần tiêu chuẩn về chợ, trạm y tế, sân chơi văn hóa để người dân nông thôn không bị thua thiệt so với nội thành. Đây là hướng đi phù hợp với mô hình đô thị hiện đại trên thế giới. Người ta hay nói đến “thành phố 15 phút”, nghĩa là mọi tiện ích ở trong tầm 15 phút di chuyển. Ở ta có thể không rập khuôn con số 15 phút, nhưng triết lý thì giống nhau: Đưa dịch vụ đến gần dân nhất có thể.

Ngoài ra, khi quy hoạch phường, xã như một “đơn vị đô thị” tương đối độc lập, chúng ta cũng giảm áp lực di chuyển cho cả Thành phố. Mọi người không nhất thiết phải đổ dồn lên quận trung tâm để học hành, chữa bệnh hay vui chơi giải trí nếu ngay phường mình đã có chỗ đáp ứng. Việc này cũng góp phần hạn chế ùn tắc giao thông và quá tải hạ tầng liên vùng.

Tôi cho rằng TP.HCM nên sớm nghiên cứu thí điểm mô hình phường, xã kiểu mới ở vài nơi, sau đó nhân rộng. Đây chính là hạt nhân cho một đô thị đa tâm mà chúng ta hướng tới.

* Việc hợp nhất TP.HCM với Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu đã mở ra một không gian đô thị liên vùng khổng lồ, theo ông chúng ta nên xem đây như một đô thị thống nhất hay là một chuỗi đô thị đa trung tâm liên kết với nhau?

- Tôi cho rằng với tầm vóc và đặc thù của TP.HCM mở rộng hiện nay, mô hình đô thị đa trung tâm là bắt buộc. Không thể hình dung một siêu đô thị gần 30.000 km², dân số hàng chục triệu người, lại vận hành theo kiểu một đô thị tập trung duy nhất như trước đây. Điều đó không thực tế. Thay vào đó, chúng ta phải coi toàn Thành phố như một vùng đô thị gồm nhiều “mảnh ghép” liên thông với nhau. Mỗi “mảnh” có thể là một đô thị vệ tinh hoặc một cụm đô thị, đảm nhận vai trò chức năng riêng và có bản sắc riêng, nhưng tất cả kết nối hài hòa tạo thành tổng thể thống nhất.

Quan điểm của tôi là phải phân tán các cực phát triển thay vì dồn hết vào một lõi trung tâm. Sau hợp nhất, TP.HCM có điều kiện tổ chức lại các phân vùng kinh tế trên một không gian rộng, tránh chồng lấn chức năng và sử dụng đất lãng phí như trước. Chẳng hạn, có thể hình thành một cực công nghiệp - logistics ở phía Đông Bắc (vùng Bình Dương cũ), một cực du lịch - cảng biển ở phía Nam (vùng Bà Rịa – Vũng Tàu), một cực công nghệ cao - giáo dục ở phía Tây Bắc (Củ Chi, Tây Ninh giáp ranh)... Trong khi đó, trung tâm TP.HCM - Thủ Thiêm sẽ tập trung dịch vụ tài chính, thương mại quốc tế. Các cực này được kết nối bằng mạng lưới giao thông “mạch máu” hiện đại gồm cao tốc, đường vành đai, đường sắt để đảm bảo dòng chảy đô thị thông suốt. Khi đó, dù phân tán đa cực nhưng toàn vùng vẫn vận hành nhịp nhàng như một cơ thể thống nhất.

Mô hình “chuỗi đô thị liên kết” này thực ra không mới, nhiều quốc gia đã áp dụng cho các vùng đô thị khổng lồ. Ưu điểm là mỗi đô thị thành phần có thể phát huy tối đa lợi thế của mình và hỗ trợ lẫn nhau, đồng thời giảm áp lực lên một trung tâm duy nhất. Với TP.HCM, điều này còn giúp chúng ta gìn giữ được bản sắc đa dạng của từng địa phương như đã nói ở trên. Thay vì cố áp đặt một hình ảnh đô thị đồng nhất, chúng ta cho phép mỗi nơi tỏa sáng với cá tính riêng. Có những phường, thị xã sẽ đạt tiêu chí này, đóng vai trò nọ; nơi khác lại đảm nhiệm chức năng khác - tạo nên bức tranh đô thị đa sắc. Người dân khi di chuyển từ khu này sang khu khác sẽ cảm nhận sự chuyển đổi thú vị, chứ không phải chỗ nào cũng na ná nhau.

Tất nhiên, thách thức lớn nhất là khâu quản lý và kết nối. Một khi đã đa trung tâm, chính quyền đô thị phải có cơ chế phối hợp liên vùng rất chặt chẽ, tránh tình trạng “mỗi nơi một kiểu” hoặc mạnh ai nấy làm. Hạ tầng liên vùng, đặc biệt là giao thông và cấp thoát nước phải được đầu tư đồng bộ để các đô thị vệ tinh gắn kết hữu cơ, không bị cát cứ. Tôi tin rằng nếu làm tốt, mô hình này sẽ mở ra một chương phát triển mới đầy triển vọng cho TP.HCM: Vừa rộng lớn về quy mô, vừa sâu sắc về bản sắc, và bền vững về cấu trúc.

*Xin cảm ông những chia sẻ của ông!

Lữ Ý Nhi

Nguồn DNSG: https://doanhnhansaigon.vn/ths-kts-nguyen-thu-phong-xay-dung-tp-hcm-khoe-manh-can-mo-hinh-phu-hop-331330.html