Thứ trưởng Hoàng Xuân Chiến: Đối ngoại quốc phòng gắn với những mốc son chói lọi của dân tộc
Đối ngoại quốc phòng nằm trong chiến lược đối ngoại chung của Đảng và Nhà nước, đồng hành với sự phát triển của ngoại giao Việt Nam, gắn liền với những mốc son chói lọi của dân tộc...
LTS: Sau 55 ngày đêm tiến quân “thần tốc” với khí thế “một ngày bằng 20 năm”, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 của quân và dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, kết thúc vẻ vang sự nghiệp đấu tranh thống nhất non sông.
Đó là kết quả của quá trình đấu tranh kiên cường, dũng cảm, đầy mất mát, hy sinh của dân tộc Việt Nam cho mục tiêu “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Thắng lợi vĩ đại này kết thúc 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
50 năm sau chiến thắng lịch sử, đất nước lại bước vào một kỷ nguyên mới - “xây dựng một tương lai huy hoàng, rạng rỡ cho dân tộc Việt Nam”. Nhân dịp kỷ niệm đặc biệt này, báo VietNamNet giới thiệu loạt bài với chủ đề “Ngày 30/4 - kỷ nguyên mới”.
Các chuyên gia, nhà quân sự, chứng nhân lịch sử chia sẻ những ký ức, bài học, kinh nghiệm từ thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đó là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân - cội nguồn thắng lợi của cuộc kháng chiến, là ý chí bảo vệ nền độc lập tự chủ của dân tộc và thống nhất non sông, là niềm tin bước vào Kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.
Đó còn là bài học huy động sức dân, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế; bài học ngoại giao, quân sự trong công cuộc kháng chiến cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đó là sự sáng tạo, kiên cường, là sức mạnh của chiến tranh nhân dân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, bài học lớn trong phát huy nội lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trân trọng giới thiệu bài viết của Thượng tướng, PGS, TS Hoàng Xuân Chiến - ủy viên Trung ương Đảng, ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
50 năm sau ngày đất nước thống nhất, chúng ta cùng nhìn lại những thành tựu của đối ngoại quốc phòng trong các giai đoạn lịch sử của dân tộc, rút ra những bài học kinh nghiệm, để từ đó tiếp tục kế thừa, phát huy và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Dấu ấn đối ngoại quân sự trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, công tác đối ngoại quân sự đã quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến "toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính", cùng với ngoại giao Nhà nước kiên quyết, linh hoạt thực hiện chủ trương "hòa để tiến". Lúc hòa với Tưởng, tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, rồi hòa với Pháp bằng việc ký kết Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp ngày 6/3/1946 và Tạm ước Việt - Pháp ngày 14/9/1946, góp phần quan trọng bảo vệ thành công chính quyền cách mạng non trẻ, tranh thủ thêm thời gian củng cố lực lượng để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
Thực hiện chủ trương của Đảng "cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới", "Đông Dương là một chiến trường", "Giúp bạn là tự giúp mình", quan hệ đối ngoại quân sự của Việt Nam giai đoạn này được mở rộng sang phía Tây. Ta cử nhiều cán bộ và một số đơn vị vũ trang sang chiến đấu bên cạnh các đội vũ trang tuyên truyền, tổ chức liên quân Lào - Việt, Miên - Việt đang đứng chân trên đất bạn.

Ảnh: Hoàng Hà
Ngày 30/10/1945, Chính phủ Lào Ít-xa-la và Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ký kết "Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt". Đây được coi là văn bản ký kết đầu tiên về hợp tác quân sự của Việt Nam và là cơ sở pháp lý đầu tiên về mối quan hệ liên minh chiến đấu giữa hai dân tộc với tư cách hai nhà nước.
Cùng với việc thiết lập khối liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia, ta còn mở rộng quan hệ đối ngoại quân sự với Trung Quốc. Năm 1949, theo đề nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ta đã cử bộ đội sang giúp bạn xây dựng, củng cố hai biên khu Việt Quế và Điền Quế, phối hợp cùng Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc tiến hành chiến dịch Thập vạn đại sơn thắng lợi.
Để đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến, đối ngoại quân sự thời kỳ này còn thực hiện nhiệm vụ tiếp đón các cố vấn quân sự Trung Quốc sang giúp đỡ Việt Nam; tiếp nhận và sử dụng hiệu quả viện trợ quân sự của Liên Xô, Trung Quốc và cử cán bộ sang học tập kinh nghiệm chiến đấu của quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, Hồng quân Liên Xô và quân đội một số nước xã hội chủ nghĩa.

Hình tượng chiến sĩ Điện Biên. Ảnh: Hoàng Hà
Chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 7/5/1954 kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tạo “thế mới”, “lực mới” cho cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán tại Hội nghị Genève. Thực hiện thỏa thuận tại Hội nghị Genève, đoàn đại biểu Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và đoàn đại biểu Bộ Tổng Chỉ huy các lực lượng liên hiệp Pháp tại Đông Dương họp Hội nghị quân sự Trung Giã (4-27/7/1954) để bàn và quyết định những vấn đề quân sự mà Hội nghị Genève đã thỏa thuận liên quan đến vấn đề tù binh; thực hiện ngừng bắn; điều chỉnh khu vực tập kết quân đội; Ủy ban Liên hiệp quân sự…, góp phần quan trọng vào thành công của Hội nghị Genève, để lại dấu ấn đậm nét của đối ngoại quân sự trong nền ngoại giao Việt Nam.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), công tác đối ngoại quân sự tập trung vào một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Quân đội là củng cố liên minh chiến đấu với lực lượng vũ trang cách mạng Lào và Campuchia, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng dân tộc và các lực lượng hòa bình dân chủ trên thế giới đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.
Để thúc đẩy hợp tác quân sự với các nước, Việt Nam chính thức đặt Tùy viên Quân sự ở Liên Xô, Trung Quốc, Cuba. Đồng thời, các nước Liên Xô, Trung Quốc, Cộng hòa dân chủ Đức, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Indonesia… cũng đặt tùy viên quân sự tại nước ta. Đối ngoại quân sự thời kỳ này là kênh quan trọng để tiếp nhận sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước bạn bè, anh em trên thế giới về vũ khí, trang bị, hậu cần, quân y.
Trong giai đoạn 1965-1975, công tác đối ngoại quân sự đã phát triển nhanh chóng cả về phạm vi và quy mô hợp tác. Việt Nam đã đón gần 6.000 lượt chuyên gia quân sự Liên Xô, 1.500 lượt chuyên gia Trung Quốc và chuyên gia các nước Ba Lan, Cộng hòa dân chủ Đức, Hungary, Tiệp Khắc… sang giúp khai thác, sử dụng, bảo quản, sửa chữa vũ khí, trang bị; đón 175 đoàn quân sự các nước sang thăm hữu nghị, trao đổi kinh nghiệm. Quân đội ta cũng đã cử 82 đoàn cán bộ và hàng nghìn học sinh sang các nước xã hội chủ nghĩa để học tập kinh nghiệm, nâng cao trình độ lý luận chính trị quân sự và phương pháp tác chiến, kịp thời đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của cách mạng.
Giai đoạn này, Quân đội ta cũng đã tổ chức giới thiệu kinh nghiệm xây dựng lực lượng, đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang và nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân với quân đội nhiều nước trên thế giới, qua đó mở rộng quan hệ về quân sự, quốc phòng và làm tăng uy tín, vị thế của Quân đội nhân dân Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Đối ngoại quân sự cũng có những đóng góp đặc biệt quan trọng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với sự ra đời của Ban Liên hợp quân sự bốn bên, sau này là Ban Liên hợp quân sự hai bên (tại Trại Davis) để đấu tranh ngoại giao, đảm bảo các bên thi hành nghiêm chỉnh các điều khoản của Hiệp định Paris, trở thành mũi tiến công thứ sáu - ngoại giao quân sự, bên cạnh năm cánh quân chủ lực tiến vào giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong suốt 30 năm tiến hành chiến tranh cách mạng, cùng với sự phát triển đường lối chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước, hoạt động đối ngoại quân sự đã có sự phát triển vượt bậc. Thông qua đối ngoại quân sự, chúng ta không những tranh thủ và phát huy hiệu quả sức mạnh đoàn kết quốc tế, mà còn góp phần tích cực củng cố, tăng cường đoàn kết trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng dân tộc và các lực lượng hòa bình dân chủ trên thế giới, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp đánh thắng thực dân, đế quốc xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Thống nhất lý luận và thực tiễn đối ngoại quốc phòng góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm từ xa
Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là dưới ánh sáng Đổi mới của Đại hội VI của Đảng với đường lối đối ngoại “rộng mở”, đối ngoại quân sự, quốc phòng tiếp tục là kênh ngoại giao quan trọng để tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ về tinh thần, vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới; làm tròn nghĩa vụ quốc tế, tích cực góp phần vào các hoạt động đối ngoại, ngoại giao chung của Đảng và Nhà nước, phá thế bao vây cấm vận, thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng với nhiều nước, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước, tăng cường tiềm lực quốc phòng.
Sự đổi mới tư duy về đối ngoại và hợp tác quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta tiếp tục được phát triển qua các kỳ Đại hội. Đường lối bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa được Đảng ta phát triển, hoàn thiện thành tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; tiếp tục thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; trong đó, lợi ích quốc gia - dân tộc là bất biến, kiên định mục tiêu, nguyên tắc, chiến lược, vận dụng sách lược mềm dẻo, linh hoạt, giữ “trong ấm ngoài êm” để đất nước phát triển bền vững.
Đối ngoại quốc phòng được Đảng, Nhà nước xác định là một biện pháp quan trọng để đấu tranh bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình, đồng thời góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế của đất nước, Quân đội trong khu vực và trên trường quốc tế, tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước.
Quán triệt sâu sắc tinh thần đó, những năm qua, Quân ủy Trung ương Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Quân đội đã tích cực, chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước giải quyết tốt các vấn đề chiến lược liên quan đến nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh, biên giới lãnh thổ, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Đến nay, Việt Nam đã mở rộng và thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng với trên 100 quốc gia, trong đó có đầy đủ 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Hợp tác quốc phòng song phương với các nước, nhất là với các nước láng giềng có biên giới liền kề, các nước lớn, đối tác chiến lược, các nước ASEAN và bạn bè truyền thống được thúc đẩy, ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, tăng cường tin cậy chính trị, bảo đảm cân bằng quan hệ, đan xen lợi ích với tất cả các nước trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng, cùng có lợi và tuân thủ luật pháp quốc tế, tập trung vào một số lĩnh vực phù hợp với nhu cầu và khả năng của ta, như: trao đổi đoàn, duy trì hiệu quả các cơ chế tham vấn, đối thoại; hợp tác đào tạo; hợp tác quân, binh chủng; đối ngoại biên giới, giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, khắc phục hậu quả chiến tranh, cứu hộ cứu nạn, nghiên cứu chiến lược, công nghiệp quốc phòng, quân y, gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc…, góp phần tích cực nâng cao tiềm lực quốc phòng.
Trên bình diện đa phương, Bộ Quốc phòng đã và đang chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào các sáng kiến quan trọng tại các cơ chế, diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế, nhất là trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+); Đối thoại Shangri-La, Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh, Hội nghị An ninh quốc tế Moscow... Qua đó củng cố và tăng cường lòng tin chiến lược khẳng định quan điểm nhất quán, chính sách quốc phòng "bốn không" trong quan hệ quốc tế.
Việc Quân đội nhân dân Việt Nam chủ động tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa đã góp phần nâng cao vị thế, uy tín, hình ảnh một quốc gia thân thiện, yêu chuộng hòa bình, có tinh thần trách nhiệm cao đối với cộng đồng quốc tế, được các phái bộ, cơ quan Liên hợp quốc và nhân dân nước sở tại ghi nhận, đánh giá cao. Từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã triển khai hơn 1.100 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình tại các phái bộ của Liên Hợp Quốc, cả hình thức cá nhân và đơn vị.

Lực lượng thuộc Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 6 và Đội Công binh số 3 lên đường thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc tại Nam Sudan và khu vực Abyei. Ảnh: Phạm Hải
Công tác đối ngoại quốc phòng đã và đang có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta đã tranh thủ được nhiều hơn các nguồn lực từ bên ngoài để từng bước hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật, nâng cao trình độ, khả năng tác chiến của Quân đội và sức mạnh quốc phòng của đất nước; củng cố lòng tin với các nước, các tổ chức quốc tế, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; đóng góp tích cực vào duy trì hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Phát huy truyền thống nhân nghĩa, thủy chung, trước sau như một của dân tộc, của nền ngoại giao nước nhà, đối ngoại quốc phòng luôn quan tâm củng cố quan hệ truyền thống, tri ân sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của các nước đã dành cho nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm tháng khó khăn, gian khổ, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Nhân kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 35 năm ngày hội quốc phòng toàn dân, Bộ Quốc phòng đã tổ chức các cuộc gặp mặt, tri ân các cựu chiến binh Liên Xô (nay là Liên bang Nga), Trung Quốc, bạn bè quốc tế đã giúp đỡ Việt Nam và mời các cựu chiến binh sang tham dự lễ kỷ niệm, thăm lại Việt Nam. Qua đó, góp phần củng cố quan hệ đối ngoại quốc phòng giữa Việt Nam với các nước trong tình hình mới.
Những thành tựu nổi bật của đối ngoại quốc phòng trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn, sáng tạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, nhất là bài học về bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, trực tiếp, thường xuyên là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đối với công tác đối ngoại quốc phòng.
Đó là bài học về nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc gắn liền với tranh thủ sự ủng hộ và hợp tác quốc tế; vận dụng sáng tạo, linh hoạt và hiệu quả quan điểm đoàn kết quốc tế của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, tư tưởng, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh, truyền thống ngoại giao Việt Nam vào điều kiện mới của đất nước, xác định đối ngoại quốc phòng là kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. Là bài học kinh nghiệm về kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với đối ngoại, phát huy thực lực ngoại giao, tạo được sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bước vào giai đoạn mới, với thế và lực mới sau gần 40 năm đổi mới, dưới ánh sáng đường lối Đại hội Đảng XIII, đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thực hiện khát vọng, mục tiêu phát triển đến giữa thế kỷ XXI trở thành một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một dấu mốc có ý nghĩa lịch sử của dân tộc ta trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, để tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước, công tác đối ngoại quốc phòng cần tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về đối ngoại quốc phòng được xác định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI; Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; các kết luận, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đối với công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới. Xác định lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu tối thượng của hoạt động đối ngoại quốc phòng. Kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại kết hợp chặt chẽ với nguyên tắc “bốn không” trong chính sách quốc phòng để duy trì cân bằng quan hệ với các nước.

Quân đội luyện tập diễu binh. Ảnh: Thạch Thảo
Đối ngoại quốc phòng phải nằm trong chiến lược đối ngoại chung của Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Nhân dân nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trên lĩnh vực đối ngoại; kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, nhưng mềm dẻo, linh hoạt trong ứng xử, xử lý từng trường hợp, từng thời điểm cụ thể trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp tục chủ động nghiên cứu, nắm chắc tình hình thế giới, khu vực, kịp thời tham mưu xử lý các vấn đề liên quan đến đối ngoại quốc phòng, đảm bảo tối cao lợi ích quốc gia, dân tộc, không để bị động, bất ngờ. Tích cực đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế cả trên bình diện song phương và đa phương hiệu quả, thiết thực trong đó thúc đẩy quan hệ, hợp tác quốc phòng với nước láng giềng có biên giới liền kề, các nước lớn, đối tác chiến lược, các nước ASEAN, bạn bè truyền thống tiếp tục là ưu tiên hàng đầu trong công tác đối ngoại quốc phòng.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại quốc phòng; tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đối ngoại quốc phòng, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương trong trao đổi, chia sẻ thông tin, nghiên cứu chiến lược và trong triển khai công tác đối ngoại quốc phòng; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới.
Những dấu ấn nổi bật của đối ngoại quốc phòng trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn sáng tạo của Đảng, Nhà nước; bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam trong công tác đối ngoại dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương Bộ Quốc phòng. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ rất cao, đòi hỏi công tác đối ngoại quốc phòng phải tiếp tục vận dụng phát huy truyền thống, thành quả đã đạt được; đổi mới tư duy hành động vươn tầm cao mới, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới của đất nước.