Thủ tướng duyệt điều chỉnh quy hoạch chung TP.HCM đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2060
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định 1125/QĐ-TTg ngày 11/6/2025 về việc phê duyệt Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung TP.HCM đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2060.
Mục tiêu của đồ án Điều chỉnh quy hoạch chung tầm nhìn đến năm 2060 là TP.HCM trở thành Thành phố toàn cầu, văn minh, hiện đại, nghĩa tình - có trình độ phát triển ngang tầm các đô thị lớn trên thế giới; là trung tâm kinh tế, tài chính, dịch vụ của châu Á, có vai trò là cực tăng trưởng, động lực thúc đẩy phát triển vùng phía Nam và cả nước; là khu vực có mức sống và chất lượng cuộc sống cao; kinh tế, văn hóa phát triển đặc sắc, thu hút các định chế tài chính và tập đoàn kinh tế quốc tế.

Hành lang phát triển dọc sông Sài Gòn - lấy không gian ven sông Sài Gòn làm mặt tiền cho đô thị.
Đô thị đa trung tâm với 6 phân vùng
Theo đó, quy hoạch đặt mục tiêu phát triển không gian đô thị theo hướng thúc đẩy sáng tạo, tương tác cao gắn với phát triển kinh tế tri thức, công nghệ cao, nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội. Hình thành các khu vực động lực để phát huy vai trò trung tâm vùng và cực tăng trưởng của cả nước.
Đồng thời, tổ chức hệ thống hạ tầng kết nối vùng giữa TP.HCM với các địa phương lân cận, với cả nước, quốc tế theo chiến lược và trọng điểm; tăng cường kết nối giữa các khu vực trong Thành phố nhằm tổ chức hoạt động đô thị hiệu quả; phát triển đô thị theo định hướng phát triển giao thông công cộng;
Tập trung tái phát triển các khu đô thị hiện hữu, mở rộng không gian phát triển đô thị gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng đất và tối ưu hóa trong tổ chức hệ thống hạ tầng kỹ thuật. Tạo lập không gian đô thị đa dạng, tối đa hóa khả năng cung cấp việc làm, hướng tới phát triển dịch vụ đô thị đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Bên cạnh đó, quy hoạch cũng hướng tới bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc không gian kiến trúc, cảnh quan, sinh thái đa dạng của thành phố, đặc biệt là các giá trị đặc trưng của đô thị vùng sông nước, cửa biển và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tính chất đô thị là đô thị loại đặc biệt trực thuộc Trung ương; trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học kỹ thuật và công nghệ quan trọng của quốc gia, có vai trò tiên phong dẫn dắt đổi mới, sáng tạo; có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển đô thị quốc gia.
Không những thế, TP.HCM cũng xác định là một trong những trung tâm du lịch, tài chính - thương mại và dịch vụ logistics của khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương; trung tâm chăm sóc sức khỏe khu vực ASEAN; là đầu mối giao thông, hạ tầng số quan trọng trong vùng Đông Nam Bộ, quốc gia và quốc tế; là trung tâm liên kết vùng, đầu mối kết nối các loại hình vận tải đa phương thức của Vùng trọng điểm phía Nam.
Theo Quyết định của Thủ tướng, phạm vi và quy mô lập quy hoạch là toàn bộ địa giới hành chính của TP.HCM hiện nay, bao gồm thành phố Thủ Đức, 16 quận và 5 huyện, với diện tích 2.095km2. Ngoài ra, phần khai thác lấn biển theo Quy hoạch TP.HCM thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 gồm khu đô thị lấn biển Cần Giờ và cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ đã được chấp thuận chủ trương đầu tư.
Định hướng TP.HCM phát triển theo mô hình đô thị đa trung tâm, hình thành các phân vùng đô thị đa chức năng với hạt nhân là các khu vực trọng điểm về tài chính, thương mại, du lịch, văn hóa, thể dục thể thao, nghiên cứu, đào tạo và sản xuất công nghệ cao. Qua đó thúc đẩy tương tác trong các hoạt động kinh tế - xã hội và liên kết phát triển.
Cấu trúc không gian thành phố phát triển theo 6 phân vùng gồm: Phân vùng trung tâm và các phân vùng phía Đông, phía Tây, phía Bắc, phía Nam và phía Đông Nam. Mỗi phân vùng được cấu trúc theo hướng đa chức năng, gắn với các khu vực trọng điểm phát triển có vai trò trung tâm vùng, quốc gia và quốc tế nhằm tạo cơ hội việc làm và môi trường sống có chất lượng cao.
Các phân vùng đô thị được kết nối với phân vùng đô thị trung tâm thông qua 9 trục xuyên tâm (4 trục Bắc - Nam và 5 trục Đông - Tây), 3 Vành đai (Vành đai 2, Vành đai 3, Vành đai 4), 2 hành lang phát triển mới (hành lang phát triển dọc sông Sài Gòn và hành lang kinh tế ven biển).
Do đó, định hướng đến năm 2030, nâng cao chất lượng đô thị tại khu vực đô thị trung tâm hiện hữu và phân vùng đô thị Thủ Đức; tập trung phát triển khu vực đô thị trung tâm mở rộng tại các phân vùng phía Bắc, phía Tây, phía Nam, phía Đông Nam.
Sau năm 2030, hệ thống đô thị trong thành phố phát triển đồng bộ với 6 phân vùng đô thị, gồm: Khu vực đô thị trung tâm (khu vực trong vành đai 2), các phân vùng đô thị: Thủ Đức, Củ Chi - Hóc Môn; Bình Chánh; Quận 7 - Nhà Bè và Cần Giờ.

Công viên bờ sông Sài Gòn.
Đồ án điều chỉnh lần này vẫn kế thừa nội dung điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025, tiếp tục phát triển Thành phố theo 4 hướng là: hướng Đông, hướng Nam ra biển, hướng Tây - Bắc và hướng Tây, Tây - Nam.
Đồng thời bổ sung phát triển các trục giao thông như: Trục ven Sông Sài Gòn - Huỳnh Tấn Phát; Quốc lộ 22 - Trường Chinh - Cách Mạng Tháng Tám - Nguyễn Hữu Thọ; Đường tỉnh 743 - Vành đai 2 - Nguyễn Lương Bằng - trục động lực phát triển mới phía Tây Cần Giờ; Trục quốc lộ 1A; Trục qua sân bay (Phạm Văn Đồng - Nguyễn Thị Tú nối dài đến Long An); Đường cao tốc TP.HCM - Long Thành - Dầu Giây, Nguyễn Văn Linh, cao tốc TP.HCM - Trung Lương...
Ngoài ra, quy hoạch cũng hình thành các hành lang phát triển mới như: Hành lang phát triển dọc sông Sài Gòn - lấy không gian ven sông Sài Gòn làm mặt tiền cho đô thị, phát triển dải đô thị hai bên sông thành dải đô thị trung tâm. Điểm đến mang đậm bản sắc gắn với cảnh quan và lịch sử hình thành phát triển của thành phố.
Đối với hành lang kinh tế ven biển thì tổ chức hệ thống giao thông liên vùng, kết nối khu vực ven biển phía Nam của thành phố với các tỉnh lân cận. Đồng thời kết nối các trung tâm kinh tế biển như cảng trung chuyển quốc tế, các khu vực đô thị du lịch, công nghệ, sinh thái ven biển, lấn biển, khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ.
Ưu tiên phát triển nhà ở chi phí thấp
Theo định hướng phát triển nhà ở đến năm 2030, chỉ tiêu diện tích sàn nhà ở bình quân toàn Thành phố đạt khoảng 27 - 30m2/người, đến năm 2040 đạt khoảng 30 - 32m2/người. Phát triển nhà ở gắn với quá trình phát triển mở rộng đô thị; cải tạo chỉnh trang và tái thiết các khu vực trong thành phố nhằm nâng cao điều kiện ở và chất lượng sống cho người dân.
Đối với nhà ở xã hội, phát triển các khu nhà ở xã hội tập trung đồng bộ với phát triển các trung tâm đào tạo, khu công nghiệp, khu chế xuất tại các phân vùng phát triển của thành phố. Tập trung chủ yếu ở các khu chức năng đô thị, khu vực phát triển TOD và khu vực trọng điểm phát triển với tổng quỹ đất đến năm 2040 khoảng 1.400ha. Ưu tiên phát triển quỹ nhà ở chi phí thấp và nhà ở cho thuê, xây dựng nhà ở cho học sinh, sinh viên; xây dựng quỹ nhà ở chính sách.
Đối với khu dân cư hiện hữu, tùy điều kiện từng khu vực cụ thể, khuyến khích hợp thửa, tái điều chỉnh đất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nâng tầng cao xây dựng và tăng tỷ lệ không gian thoáng trong các khu vực có mật độ xây dựng cao; bổ sung hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội để nâng cao chất lượng môi trường sống.
Hạn chế, kiểm soát chặt chẽ việc chia tách thửa, chức năng sử dụng đất đối với các khu vực nhà ở trong các khu vực trung tâm hiện hữu, các khu dân cư có mật độ cư trú cao. Kiểm soát quy hoạch và kiến trúc đối với khu dân cư nông thôn đô thị hóa, khu nhà ở riêng lẻ để bảo đảm tiêu chí, chất lượng đô thị theo hình thức và lộ trình phù hợp.
Tập trung di dời và tái phát triển các khu vực ven và trên kênh rạch kết hợp tái định cư tại chỗ; cải tạo, tái thiết các khu chung cư cũ, xây dựng giải pháp phân bố dân cư hợp lý tại các khu vực quy hoạch, cân đối tại chỗ để đáp ứng hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, cây xanh... tại khu vực, hài hòa lợi ích của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp.

Ưu tiên phát triển nhà ở chi phí thấp ở những khu vực tập trung đông dân cư.
Đối với khu dân cư xây mới thì chủ yếu phát triển chung cư nhưng phải đảm bảo điều kiện hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Khuyến khích phát triển đô thị nén, đồng bộ về hạ tầng gắn với ở những khu vực có nhu cầu sử dụng lao động như khu công nghiệp, các trung tâm dịch vụ, trường đại học... để cung cấp chỗ ở tại chỗ cho các đối tượng lao động và tối ưu khoảng cách đi lại.
Riêng khu dân cư nông thôn cần kiểm soát việc mở rộng, xây dựng nhà ở nhằm quản lý sử dụng đất hiệu quả, đúng chức năng sử dụng đất, tạo lập hình thái kiến trúc khu vực nông thôn có bản sắc. Khuyến khích bảo tồn, tôn tạo kiến trúc nhà ở truyền thống; nghiên cứu phát triển các mẫu nhà ở mới phù hợp với điều kiện tự nhiên, mô hình sản xuất và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tổ chức nhà ở nông thôn có chất lượng tiện nghi tương đồng với khu vực đô thị.