'Thuế chồng thuế' làm giảm động lực khai thác tận thu, chế biến sâu của doanh nghiệp khoáng sản
Doanh nghiệp khai khoáng đang phải gánh tới 9 loại thuế, trong đó sự chồng lấn về bản chất giữa thuế tài nguyên và tiền cấp quyền đang làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo rủi ro pháp lý, làm méo mó động lực đầu tư…

Doanh nghiệp khai khoáng đang phải gánh tới 9 loại thuế.
Công nghiệp khai khoáng là ngành công nghiệp nền tảng, đóng góp nguồn lớn vào ngân sách nhà nước. Vai trò chiến lược của ngành khoáng sản đặc biệt quan trọng và ngày càng quan trọng trong bối cảnh phát triển kinh tế dựa trên những ngành công nghệ.
HAI CƠ CHẾ TÀI CHÍNH ĐÁNH VÀO CÙNG MỘT ĐỐI TƯỢNG
Tuy nhiên, tại hội thảo "Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản" do Liên đoàn thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức ngày 15/10/2025, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký VCCI cho biết các doanh nghiệp trong lĩnh vực khai khoáng hiện đang phải thực hiện đồng thời hai nghĩa vụ tài chính lớn: Thuế tài nguyên theo Luật Thuế tài nguyên 2009 và Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo Luật Khoáng sản 2010, tiếp tục được kế thừa trong Luật Địa chất và Khoáng sản 2024.
Cả hai khoản thu này đều nhằm bảo đảm Nhà nước thu được phần giá trị từ tài sản công là tài nguyên khoáng sản. Song việc cùng lúc áp dụng hai cơ chế tài chính đánh vào cùng một đối tượng đã và đang đặt ra những vấn đề thực tiễn, pháp lý và kinh tế đáng quan tâm.
Theo phản ánh từ cộng đồng doanh nghiệp khai khoáng, tổng mức nghĩa vụ tài chính hiện nay đang cao vượt trội so với thông lệ quốc tế, có thể chiếm tới 30–40% doanh thu. Trong khi đó, các quốc gia có ngành khai khoáng phát triển như Australia, Canada, Indonesia thường chỉ áp dụng một cơ chế royalty (tiền bản quyền) linh hoạt, kết hợp với thuế thu nhập doanh nghiệp, với tổng mức thu thấp hơn đáng kể.
“Chính sự chồng lấn về bản chất giữa thuế tài nguyên và tiền cấp quyền đang làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời tạo ra những rủi ro pháp lý và làm méo mó các động lực đầu tư vào khai thác hiệu quả và chế biến sâu – vốn là định hướng xuyên suốt trong Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược phát triển ngành khoáng sản đến năm 2030, tầm nhìn 2045”, ông Tuấn phân tích.

Quang cảnh hội thảo.
Ông Nguyễn Văn Phụng, Chuyên gia cấp cao về thuế và quản trị doanh nghiệp, cũng đồng tình cho rằng doanh nghiệp khai khoáng đang phải gánh tới 9 loại thuế, trong đó sự trùng lặp giữa hai khoản thu trên là đáng quan tâm.
Hai khoản thu cấp quyền khai thác khoáng sản và thuế tài nguyên có cùng cơ sở tính, cách tính (khác về phương thức quản lý, cơ quan quản lý, thời gian, phân cấp ,…) tạo cảm giác thu trùng lắp trên cùng một quyền lợi và nghĩa vụ.
Trong mỗi khoản thu, dường như tạo gánh nặng hơn, tác động đến kết quả sản xuất kinh doanh, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp, ảnh hưởng đầu tư công nghệ, quản lý tài nguyên bền vững...
Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Phan Chiến Thắng, Phó Tổng Giám đốc Masan High-tech Materials, cũng phản ánh vướng mắc lớn nhất hiện nay nằm ở chính sách tiền cấp quyền và thuế tài nguyên.
Cụ thể, trước đầu tư (năm 2010), thuế tài nguyên thuế suất <10%, nhưng sau đầu tư và đi vào hoạt động, thuế tài nguyên thuế suất 6-25%. Cùng với đó, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (2013), phí bảo vệ môi trường phát sinh (2016) và các loại quy định thuế khác thay đổi gây bất lợi cho các sản phẩm khoáng sản và ngành khai thác. Tổng thuế phí (chưa bao gồm thuế thu nhập doanh nghiệp) áp cho doanh nghiệp khai khoáng chiếm khoảng 24-26% doanh thu.
Đặc biệt, ông Thắng nhấn mạnh thu cấp quyền khai thác khoáng sản và thuế tài nguyên là tình trạng "thuế chồng thuế". Cả hai khoản thu này đều đánh vào cùng một đối tượng là tài nguyên, với phương pháp tính toán và thu nộp gần như giống hệt nhau, dẫn đến chi phí tương đương 10-15% doanh thu.
CẦN XÁC ĐỊNH LẠI BẢN CHẤT PHÁP LÝ VÀ THỐNG NHẤT NGHĨA VỤ TÀI CHÍNH
Trước các ý kiến trên, ông Tuấn đặt câu hỏi: Liệu hai nghĩa vụ tài chính này kết hợp với nhau có phù hợp hay không, có quá mức hay không?
Theo phản ánh của các doanh nghiệp, những chính sách về thuế này dẫn đến hệ quả trùng lặp về đối tượng; tăng chi phí hoạt động của doanh nghiệp; không khuyến khích tận thu vì khi thuế quá cao, người ta thường chỉ khai thác những khu nào "dễ" nhất; không khuyến khích chế biến sâu vì càng đầu tư máy móc, càng chế biến thì lại càng nộp thuế nhiều. Điều này tạo ra một động lực ngược và ảnh hưởng đến định hướng của Nghị quyết 10-NQ/TW và Nhà nước.
Do đó, từ góc nhìn của nhóm nghiên cứu, VCCI đề xuất cần xác định lại bản chất pháp lý và thống nhất nghĩa vụ tài chính, liệu đã đến lúc chúng ta rà soát lại xem thuế tài nguyên hay phí cấp quyền có nên kết hợp làm một hay không?
“Hiện nay, thuế tài nguyên do Bộ Tài chính phụ trách, còn tiền cấp quyền do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phụ trách. Liệu hai nguồn thu này tách riêng ra hai cơ quan có phù hợp hay không? Khi kết hợp lại, chúng ta mới đánh giá một cách chính xác và tổng thể về nghĩa vụ tài chính mà doanh nghiệp phải trả. Điều này giúp thiết kế một nghĩa vụ tài chính hợp lý và đảm bảo tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp”, ông Tuấn nêu quan điểm.
Đồng thời, thiết kế lại chính sách ưu đãi tài chính để doanh nghiệp có động lực tận dụng, tận thu tài nguyên. Ví dụ, mỏ nghèo, điều kiện khai thác khó khăn thì phải có ưu đãi về tài chính, về thuế phù hợp.
Ưu đãi những dự án chế biến sâu và tận thu khoáng sản đi kèm. Cần có một cơ chế ưu đãi tài chính mạnh mẽ để gửi tín hiệu cho các doanh nghiệp đầu tư khoa học công nghệ, đầu tư vốn để có những dự án tốt, tinh chế khoáng sản.
Mặt khác, chính sách cần tăng tính minh bạch và quản trị hiệu quả nguồn thu tài nguyên, như công khai thông tin về chi phí, cân nhắc tham gia Sáng kiến Minh bạch Ngành Khai thác (EITI). Các quốc gia phát triển thường công khai các nguồn thu và các chính sách thu. Đây là giải pháp phù hợp với định hướng của Việt Nam như khẳng định tại Nghị quyết 10-NQ/TW.
“Để phát triển ngành công nghiệp khai khoáng bền vững, đã đến lúc cần phải mạnh dạn cải cách chính sách tài chính về tài nguyên khoáng sản, hài hòa được lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp và người dân, đồng thời thúc đẩy ngành khai khoáng phát triển một cách bền vững và cạnh tranh quốc tế”, ông Tuấn nhấn mạnh.