Thuế chuyển nhượng chứng khoán: Bỏ cơ chế cào bằng, áp dụng linh hoạt theo lãi và lỗ
Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi cách tính thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng vốn và chứng khoán theo hướng linh hoạt hơn, sát với thực tế phát sinh thu nhập. Theo đó, thay vì áp dụng cào bằng mức thuế 0,1% trên giá chuyển nhượng như hiện nay, cá nhân có thể được tính thuế theo thu nhập thực tế tùy theo mức lãi và khi bị lỗ sẽ không phải nộp thuế.

Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi quy định về thuế TNCN đối với hoạt động chuyển nhượng vốn và chứng khoán theo hướng linh hoạt hơn.
Phương pháp không còn phù hợp
Bộ Tài chính cho biết, khoản 4 Điều 3, Điều 13, khoản 2 Điều 21, Điều 23 Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) quy định, thu nhập từ chuyển nhượng vốn, bao gồm: Thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn trong các tổ chức kinh tế; thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán; thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác.
Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng vốn được xác định bằng giá bán trừ giá mua và các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ chuyển nhượng vốn. Đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán, thu nhập chịu thuế được xác định là giá chuyển nhượng từng lần. Thu nhập tính thuế từ đầu tư vốn cũng chính là thu nhập chịu thuế.
Luật Thuế TNCN hiện hành cũng quy định rõ, thuế suất 20% trên thu nhập (giá bán trừ giá mua và các khoản chi phí hợp lý liên quan). Đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán là 0,1% trên giá chuyển nhượng từng lần. Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng vốn là thời điểm giao dịch chuyển nhượng vốn hoàn thành theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, nhiều ý kiến cho rằng việc thu thuế 0,1% trên giá chuyển nhượng chứng khoán từng lần kể cả trường hợp cá nhân bị lỗ là chưa phù hợp, cần xác định phương pháp thu thuế trên thu nhập của cá nhân, nếu có lãi thì mới nộp thuế. Cũng có ý kiến cho rằng, cần tăng mức thuế suất đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán lên mức cao hơn...
Trước đây, Luật Thuế TNCN năm 2007 cho phép người nộp thuế lựa chọn giữa hai phương pháp: Hoặc tính theo thuế suất 20% trên thu nhập thực (giá bán trừ giá mua và chi phí liên quan), hoặc nếu không xác định được đầy đủ thông tin về giá vốn và chi phí, thì nộp theo tỷ lệ 0,1% trên giá chuyển nhượng từng lần. Tuy nhiên, từ năm 2015, Luật số 71/2014/QH13 đã bỏ phương án lựa chọn, thống nhất áp dụng cách tính thuế theo tỷ lệ 0,1% trên giá chuyển nhượng từng lần.
Áp dụng phương áp tính thuế linh hoạt
Bộ Tài chính cho biết, kinh nghiệm quốc tế cho thấy mỗi quốc gia có cách tiếp cận khác nhau trong việc thu thuế thu nhập từ chứng khoán.
Tại Indonesia, áp dụng mức thuế 0,1% trên doanh thu từ chuyển nhượng cổ phiếu niêm yết, riêng người sáng lập còn chịu thêm 0,5% đối với giá trị phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng.
Philippines thu 0,6% trên giá trị giao dịch với chứng khoán niêm yết, nhưng lại áp dụng thuế suất 15% trên thu nhập thực đối với chứng khoán chưa niêm yết.
Còn Nhật Bản đánh thuế 20,315% trên thu nhập thực từ chuyển nhượng chứng khoán, bao gồm cả thuế quốc gia và thuế cư dân địa phương trong khi Trung Quốc lại áp dụng thuế suất 20% với chứng khoán không niêm yết, tính trên phần thu nhập thực.
Trong khi đó, tại Thái Lan, một số loại thu nhập từ chứng khoán niêm yết hoặc giao dịch trong khuôn khổ ASEAN Link được miễn thuế, trong khi các thu nhập khác vẫn bị đánh thuế như thu nhập thông thường.
Với chứng khoán phái sinh, vấn đề trở nên phức tạp hơn do đặc điểm của loại hình sản phẩm này. Chứng khoán phái sinh không có giá trị nội tại như chứng khoán cơ sở và không đi kèm quyền cổ đông. Giao dịch trên thị trường phái sinh không phải là chuyển nhượng toàn bộ giá trị tài sản mà chỉ là thanh toán phần chênh lệch giá trị giữa bên mua và bên bán. Do đó, việc đánh thuế trên giá trị giao dịch có thể không phản ánh chính xác lãi/lỗ thực của nhà đầu tư.
Qua nghiên cứu, Bộ Tài chính chỉ ra rằng, các quốc gia phát triển như Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Canada, Nhật Bản đã chuyển sang đánh thuế dựa trên thu nhập thực đối với chứng khoán phái sinh. Một số nước vẫn áp dụng thuế theo giá trị giao dịch nhưng với thuế suất rất thấp, như tại Đài Loan mức thuế áp dụng cho chứng khoán phái sinh thấp gấp 150 đến 600 lần so với thị trường cơ sở.
Từ những bất cập trong thực tiễn áp dụng và xu hướng điều chỉnh chính sách quốc tế, tại dự thảo Luật Thuế TNCN (thay thế), Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi quy định về thuế TNCN đối với hoạt động chuyển nhượng vốn và chứng khoán theo hướng linh hoạt hơn.
Theo đó, thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn của cá nhân cư trú được xác định bằng thu nhập tính thuế nhân với thuế suất 20% theo từng lần chuyển nhượng.
Thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng vốn được xác định bằng giá bán trừ giá mua và các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ chuyển nhượng vốn. Trường hợp không xác định được giá mua và các chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng vốn thì thuế thu nhập cá nhân được xác định bằng giá bán nhân với thuế suất 2%.
Đối với chuyển nhượng chứng khoán, nếu xác định được thu nhập thực (giá bán trừ giá mua và chi phí hợp lý), thuế suất 20% sẽ được áp dụng và tính theo năm. Nếu không xác định được các yếu tố này, cá nhân vẫn có thể nộp thuế theo tỷ lệ 0,1% trên giá chuyển nhượng từng lần, như quy định hiện hành.