Thuốc điều trị COVID-19, hy vọng vào tương lai sẽ khống chế được dịch bệnh

Bên cạnh tìm ra vaccine phòng COVID-19, việc nghiên cứu, phát triển và đưa các loại thuốc vào điều trị cho bệnh nhân COVID-19 đã góp phần không nhỏ trong việc giảm số ca mắc và tử vong do SARS-CoV-2 gây ra …

1. Thuốc điều trị COVID-19 Remdesivir

Remdesivir là thuốc kháng virus, có hoạt tính kháng virus phổ rộng và là tiền dược của dẫn xuất adenosin nucleotid.

Vào tháng 10/2020, FDA đã phê duyệt thuốc kháng virus remdesivir là thuốc điều trị COVID-19. Thuốc được chấp thuận cho bệnh nhân COVID-19 nhập viện từ 12 tuổi trở lên và cân nặng ít nhất 40kg. Remdesivir có Giấy phép sử dụng khẩn cấp để điều trị bệnh nhân COVID-19 nhập viện dưới 12 tuổi và nặng ít nhất 3,5 kg.

Thử nghiệm lâm sàng thực hiện trên 2276 bệnh nhân, với 1086 bệnh nhân trong nhóm remdesivir 10 ngày, 391 bệnh nhân trong nhóm remdesivir 5 ngày và 799 bệnh nhân trong nhóm đối chứng. Kết quả cho thấy, điều trị remdesivir trong 10 ngày đã tăng tỷ lệ hồi phục vào ngày 14 lên 50% ở bệnh nhân COVID-19 nặng. Sau 28 ngày, tỷ lệ hồi phục ở ngày thứ 14 tăng lên 50% ở bệnh nhân COVID -19 vừa và nặng. Ngoài ra, remdesivir làm giảm 36% tỷ lệ tử vong vào ngày 14 ở tất cả các bệnh nhân.

Bên cạnh đó, điều trị bằng remdesivir trong 10 ngày làm tăng đáng kể tỷ lệ hồi phục lần lượt là 22% và 14% vào ngày 7 và 28 so với nhóm chứng. Tỷ lệ tử vong sau điều trị 10 ngày với remdesivir giúp giảm 36% tỷ lệ tử vong trong 14 ngày ở bệnh nhân COVID-19 vừa và nặng.

Remdesivir được chấp thuận cho bệnh nhân COVID-19 nhập viện từ 12 tuổi trở lên và cân nặng ít nhất 40kg.

Remdesivir được chấp thuận cho bệnh nhân COVID-19 nhập viện từ 12 tuổi trở lên và cân nặng ít nhất 40kg.

2. Baricitinib

Thuốc baricitinib được sử dụng là thuốc điều trị COVID-19 theo bản sửa đổi gần nhất của Giấy phép Sử dụng Khẩn cấp (EUA) từ FDA vào ngày 28 tháng 7 năm 2021.
Loại thuốc điều trị COVID-19 này được dùng để điều trị cho người lớn và bệnh nhi nằm viện trong 2 năm hay lâu hơn mà cần oxy bổ sung, thở máy không xâm nhập hoặc xâm nhập hoặc oxy qua màng ngoài cơ thể (ECMO).

3. Casirivimab và Imdevimab (REGEN-COV)

Ngày 21/11/2020, FDA Hoa Kỳ đã phê duyệt khẩn cấp REGEN-COV (1200 mg hay 2400 mg IV) cho chỉ định điều trị COVID-19 từ nhẹ đến trung bình cho người lớn và trẻ em (từ 12 tuổi trở lên và nặng ít nhất 40 kg). Ngoài ra, thuốc điều trị COVID-19 này còn được chỉ định cho các đối tượng có nguy cơ tiến triển nặng, bao gồm cả các bệnh nhân trên 65 tuổi hoặc các bệnh nhân có kèm các bệnh lý mãn tính. Thuốc điều trị COVID-19 REGEN-COV bị chống chỉ định ở các bệnh nhân đang điều trị COVID-19 bằng liệu pháp oxy hoặc phải nhập viện vì COVID-19. Các EUA đã được mở rộng để REGEN-COV có thể được sử dụng như dự phòng sau phơi nhiễm ở những bệnh nhân có nguy cơ cao mắc COVID-19 nặng.

Thử nghiệm lâm sàng pha III đối chứng ngẫu nhiên, mù đôi cho thấy REGEN-COV có hiệu quả giảm tỷ lệ nhập viện hoặc tử vong do COVID-19 với tỷ lệ 70% so với giả dược. Ngoài ra, thử nghiệm còn cho thấy ở nhóm có sử dụng REGEN-COV, có sự giảm tải lượng virus có ý nghĩa thống kê tại ngày 7, so với nhóm chứng.

Đây là một liệu pháp kết hợp đã được cho phép theo bản sửa đổi (ban hành ngày 16 tháng 9 năm 2021) đối với EUA (ban hành ngày 9 tháng 2 năm 2021), được sử dụng như một liệu pháp dự phòng sau phơi nhiễm (phòng ngừa) COVID-19 ở người lớn và trẻ em từ 12 tuổi trở lên (trẻ em phải nặng ít nhất 40 kg), những người có nguy cơ cao phát triển COVID-19 nghiêm trọng, kể cả nhập viện hoặc tử vong.

Bamlanivimab và etesevimab là sự kết hợp của hai kháng thể đơn dòng có tác dụng ngăn chặn sự lây nhiễm của virus SARS-CoV-2.

5. Sotrovimab

Thuốc sotrovimab đã được cấp Giấy phép sử dụng khẩn cấp vào ngày 26 tháng 5 năm 2021 để điều trị COVID-19 từ nhẹ đến trung bình ở những bệnh nhân có nguy cơ cao tiến triển thành COVID-19 nặng. Thuốc KHÔNG được sử dụng cho bệnh nhân nhập viện do COVID-19 hoặc cần thở oxy.

Loại thuốc điều trị COVID-19 này là một loại kháng thể đơn dòng được thiết kế để ngăn chặn sự xâm nhập của virus SARS-CoV-2 vào các tế bào khỏe mạnh và xóa sạch các tế bào bị nhiễm bệnh.

Kết quả nghiên cứu cho thấy giảm 85% tỷ lệ nhập viện trong hơn 24 giờ hoặc tử vong ở những người dùng sotrovimab so với giả dược, tiêu chí chính của thử nghiệm. Các tác dụng ngoại ý phổ biến nhất được quan sát thấy trong nhóm điều trị bằng sotrovimab trong COMET-ICE là phát ban (2%) và tiêu chảy (1%), tất cả đều ở mức độ 1 (nhẹ) hoặc độ 2 (trung bình). Không có tác dụng phụ cấp cứu nào khác được báo cáo với tỷ lệ cao hơn với sotrovimab so với giả dược.

6. Kháng thể đơn dòng tocilizumab

Tocilizumab là thuốc trị viêm khớp dạng thấp. Các nhà nghiên cứu Anh đã phát hiện tocilizumab có thể làm giảm nguy cơ tử vong, đồng thời rút ngắn thời gian thở máy và nằm viện của bệnh nhân COVID-19.

Một số bệnh nhân COVID-19 bị bệnh nặng hơn do phản ứng quá mức của phản ứng miễn dịch của cơ thể (một cơn bão cytokine) đối với nhiễm virus. Khi điều này xảy ra, cơ thể sản xuất quá mức interleukin-6 (IL-6) - một loại protein liên quan đến tình trạng viêm - trong các tế bào phổi. Tocilizumab ngăn chặn hoạt động của IL-6, và do đó làm giảm phản ứng quá mức của hệ thống miễn dịch.

Tocilizumab được cấp phép sử dụng khẩn cấp vào ngày 24 tháng 6 năm 2021 để dùng làm thuốc điều trị COVID-19 ở bệnh nhân nhập viện từ 2 tuổi trở lên. Tuy nhiên, tocilizumab không được phép sử dụng cho những bệnh nhân COVID-19 không nhập viện .

7. Paxlovid

Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chấp thuận cho paxlovid sử dụng khẩn cấp điều trị cho bệnh nhân COVID-19 vào ngày 22/12/2021.

Theo đó, thuốc điều trị COVID-19 paxlovid được phép sử dụng khẩn cấp cho bệnh nhân COVID-19 không nhập viện với các triệu chứng từ nhẹ đến trung bình và có nhiều nguy cơ phát triển bệnh nặng.

Paxlovid dành cho người lớn và trẻ em từ 12 tuổi trở lên (nặng ít nhất 40 kg).

Paxlovid với liều điều trị 3 viên bao gồm 2 viên nirmatrelvir và 1 viên ritonavir. Các loại thuốc này hoạt động song song, để ngăn chặn SARS-CoV-2 nhân lên trong cơ thể, do đó ngăn ngừa bệnh nặng.

Các chuyên gia cho hay, sau khi dùng paxlovid trong vòng 3 ngày kể từ khi bắt đầu có triệu chứng các bệnh nhân COVID-19 từ nhẹ đến trung bình, những người có nguy cơ cao tiến triển thành bệnh nặng đã giảm 89% nguy cơ nhập viện hoặc tử vong so với giả dược và giảm 88% khi dùng trong vòng 5 ngày kể từ khi có triệu chứng.

Các tác dụng phụ có thể xảy ra của paxlovid bao gồm suy giảm vị giác, tiêu chảy, tăng huyết áp và đau cơ. Ngoài ra, thuốc có thể tương tác với các loại thuốc khác mà bạn đang dùng. Tuy nhiên có thể kiểm soát những tương tác này bằng cách trao đổi với các bác sĩ về các loại thuốc bạn đang dùng.

Paxlovid được phép sử dụng khẩn cấp cho những người không nhập viện với các triệu chứng từ nhẹ đến trung bình và có nhiều nguy cơ phát triển bệnh nặng.

8. Molnupiravir

Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chấp thuận cho molnupiravir được.sử dụng khẩn cấp điều trị cho bệnh nhân COVID-19 vào ngày 23/12/2021.

Thuốc molnupiravir do hãng dược phẩm Merck (Mỹ) và công ty Ridgeback (Đức) nghiên cứu phát triển, dùng là thuốc điều trị COVID-19 cho bệnh nhân từ nhẹ đến trung bình. Molnupiravir chỉ dành cho người lớn, từ 18 tuổi trở lên.

Molnupiravir dạng là tiền dược của chất tương tự ribonucleoside (ribonucleoside analog) - chất có hoạt tính kháng nhiều loại virus RNA (trong đó có cả virus SARS-CoV-2) bằng cách tạo ra các sản phẩm đột biến (sản phẩm lỗi) trong quá trình tái bản của virus. Khi tỷ lệ đột biến vượt quá ngưỡng dung nạp về mặt sinh học của virus, virus sẽ bị suy yếu và bị tiêu diệt.

Molnupirvir được cấp phép điều trị cho bệnh nhân COVID-19 từ 18 tuổi trở lên.

Molnupirvir được cấp phép điều trị cho bệnh nhân COVID-19 từ 18 tuổi trở lên.

Các nghiên cứu đều cho thấy, thuốc molnupiravir an toàn và hiệu quả trong việc làm giảm nguy cơ nhập viện và tử vong ở những người mắc COVID-19 nhẹ và vừa, những người có rủi ro cao mắc các triệu chứng nghiêm trọng như cao tuổi, béo phì, đái tháo đường và tim mạch.

Các tác dụng phụ của molnupiravir bao gồm tiêu chảy, buồn nôn và chóng mặt. Đặc biệt, không có tương tác thuốc nào được xác định. Tuy nhiên, thuốc này không được khuyến cáo cho phụ nữ mang thai. Mặc dù chưa được nghiên cứu ở phụ nữ mang thai, nhưng các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trên động vật mang thai cho thấy molnupiravir có thể gây hại cho thai nhi. Do vậy, FDA đề nghị phụ nữ mang thai cần trao đổi với các bác sĩ về những lợi ích và rủi ro tiềm ẩn của loại thuốc này nếu không có các lựa chọn điều trị COVID-19 khác.

Một lưu ý khác, giấy phép sử dụng khẩn cấp (EUA) cho molnupiravir được sử dụng ở những người không thể tiếp cận hoặc không thích hợp về mặt lâm sàng các lựa chọn điều trị COVID-19 thay thế được FDA cho phép. Có nghĩa là thuốc molnupiravir có thể được kê đơn. Nếu không thể dùng liệu pháp kháng thể đơn dòng hoặc không thể dùng paxlovid vì tương tác thuốc thì có thể sử dụng molnupiravir.

Với những loại thuốc điều trị COVID-19 hiện có, hy vọng chúng ta sẽ sớm đẩy lùi được dịch bệnh và trở về cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, các chuyên gia khuyên, trước mắt, vẫn cần thực hiện đầy đủ các khuyến cáo 5K để phòng dịch: Tránh tụ tập nơi đông người, rửa tay, đeo khẩu trang, giữ khoảng cách và tiêm vaccine phòng COVID-19 đầy đủ.

Xem thêm video đang được quan tâm:

DS. Trần Hải và DS. Phan Ngọc Lê

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn//thuoc-dieu-tri-covid-19-hy-vong-vao-tuong-lai-se-khong-che-duoc-dich-benh-169220104114503345.htm