Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Địa chất và khoáng sản
Bộ trưởng TN&MT Đặng Quốc Khánh nói việc xây dựng Luật Địa chất và khoáng sản tạo hành lang pháp lý toàn diện trong bảo vệ tài nguyên địa chất, khoáng sản chưa khai thác.
Chiều 22-4, tại phiên họp thứ 32, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Địa chất và khoáng sản.
Hạn chế, bất cập
Trình bày tờ trình, Bộ trưởng TN&MT Đặng Quốc Khánh cho hay sau 13 năm thi hành Luật Khoáng sản 2010, hệ thống văn bản pháp luật về khoáng sản cơ bản đầy đủ, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về khoáng sản. Nhiều chính sách quan trọng vẫn còn nguyên giá trị và được tiếp tục kế thừa.
Tuy nhiên, ông Đặng Quốc Khánh nói quá trình thực thi Luật vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Đáng chú ý, Luật Khoáng sản chưa quy định quản lý nhà nước về địa chất, nhất là quản lý thống nhất theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên ngành...
Cạnh đó, thủ tục hành chính cấp phép về khoáng sản làm vật liệu san lấp còn phức tạp; chưa phân loại các đối tượng khoáng sản để áp dụng thủ tục hành chính tương ứng, phù hợp, chẳng hạn thủ tục của mỏ đất san lấp phải thực hiện như một mỏ vàng...
Đáng chú ý, việc thu tiền cấp quyền khai thác theo trữ lượng khoáng sản còn gặp nhiều bất cập, như tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo trữ lượng khoáng sản được phê duyệt chưa đảm bảo tính chính xác; thu tiền cấp quyền khai thác trước khi khai thác không tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản mỏ; trường hợp khai thác không đủ trữ lượng được cấp phép hiện chưa có quy định việc hoàn trả tiền cấp quyền.
Bộ trưởng TN&MT nói việc xây dựng luật nhằm tạo hành lang pháp lý toàn diện trong việc bảo vệ tài nguyên địa chất, khoáng sản chưa khai thác. Đồng thời tăng cường bảo vệ môi trường, an toàn lao động trong hoạt động khoáng sản; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước với tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản và cộng đồng dân cư nơi có hoạt động khoáng sản....
Cần đánh giá tác động chính sách đầy đủ
Thẩm tra nội dung này, Thường trực Ủy ban KH,CN&MT cơ bản tán thành với sự cần thiết ban hành luật. Tuy nhiên, cơ quan này đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung thông tin, đánh giá tác động chính sách đầy đủ hơn đối với các nội dung chính sách mới, tiếp tục rà soát dự thảo luật với các luật liên quan.
Liên quan đến phân nhóm khoáng sản, cơ quan thẩm tra cơ bản thống nhất với quy định tại dự thảo phân thành bốn nhóm khoáng sản, trong đó tách riêng nhóm khoáng sản là vật liệu xây dựng thông thường (nhóm III) và khoáng sản làm vật liệu san lấp (nhóm IV).
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng một số loại khoáng sản có thể sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau nên khó xác định thuộc nhóm khoáng sản nào. Điều này gây chồng chéo thẩm quyền quy hoạch khoáng sản giữa Bộ TN&MT và UBND cấp tỉnh.
Cũng theo cơ quan thẩm tra, có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn các loại khoáng sản nhóm IV và làm rõ nội hàm khoáng sản “chỉ phù hợp với mục đích làm vật liệu san lấp” để đơn giản hóa thủ tục khai thác cát sông, cát biển làm vật liệu san lấp...
Tạo hành lang pháp lý cho khai thác cát biển
Nêu ý kiến, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị làm rõ nhiều nội dung cụ thể.
Theo ông, luật này không đề cập đến dầu, khí nhưng nói đến than bùn, than nâu và thực tế có mỏ khó khai thác than song khí than lại có thể khai thác. Điều này dẫn đến có sự giao thoa trong quản lý của Tập đoàn Than khoáng sản và Tập đoàn Dầu khí, đòi hỏi vai trò quản lý tổng hợp. Do đó, ông Huệ cho rằng cần làm rõ nguyên tắc phân chia.
Cạnh đó, dự thảo đề cập khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia nhưng chưa làm rõ thẩm quyền quyết định đưa vào dự trữ thuộc Thủ tướng Chính phủ, bộ hay địa phương...
Trong khi đó, Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường đề nghị xem xét bổ sung quy định về quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến cát biển thay thế cát sỏi lòng sông. Ông Cường nói đây là yêu cầu thực tiễn.
Dẫn số liệu thống kê cả nước có 330 mỏ cát sông với trữ lượng khoảng 2,3 tỉ m3, Tổng Thư ký Quốc hội cho rằng trữ lượng này chỉ đủ nhu cầu san lấp chứ chưa đáp ứng được nhu cầu xây dựng.
Hơn nữa, khai thác cát, sỏi lòng sông cũng để lại nhiều hệ quả nhãn tiền, đặc biệt là ảnh hưởng môi trường, biến đổi dòng chảy, sạt lở nhà cửa, đê điều, công trình xây dựng.
Cũng theo Tổng Thư ký Quốc hội, trữ lượng cát biển của nước ta khoảng 196 tỉ m3 nhưng chưa đủ hành lang pháp lý khai thác, sử dụng nên dẫn tới chậm hoặc không thể thăm dò, khai thác do chưa có quy trình kỹ thuật chuẩn hướng dẫn.
“Để hạn chế và tiến tới dừng khai thác cát sỏi lòng sông, chuyển sang cát biển thay thế, dự luật nên quy định về quy hoạch, khai thác cát biển để có cơ sở pháp lý phục vụ nhu cầu sử dụng cát biển trong tương lai” - ông Bùi Văn Cường đề nghị.
ĐỨC MINH