Tiền các đời vua triều Nguyễn giai đoạn 1883 - 1945
Sau khi vua Tự Đức mất năm 1883, triều Nguyễn rơi vào khủng hoảng trầm trọng do không có người kế vị, quyền lực bị chia rẽ giữa các trọng thần. Trước sức ép và âm mưu bảo hộ của thực dân Pháp, hai hiệp ước Harmand (1883) và Patenôtre (1884) đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của nền độc lập Đại Nam. Trong giai đoạn 1883–1885, triều Nguyễn trải qua bốn đời vua chỉ trong hai năm: Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi. Sau sự kiện thất thủ Kinh thành Huế năm 1885, vua Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết phát động phong trào Cần Vương, nhưng từ đây Đại Nam mất hoàn toàn quyền tự chủ, chỉ còn tồn tại dưới danh nghĩa Nam Triều ở miền Trung.

Bối cảnh lịch sử
Năm 1883, vua Tự Đức mất. Do nhà vua không có con nối dõi, nên quyền điều hành chính sự đa phần rơi vào tay các trọng thần; cùng đó, trước âm mưu xâm chiếm, bảo hộ từ phía Thực dân Pháp ở Nam kỳ, Triều đình Nhà Nguyễn càng bị phân chia, hỗn loạn và lãnh thổ càng ngày càng thu hẹp. Các hiệp ước Harmand (1883) và Patenôtre (1884) đã chấm dứt hoàn toàn tư cách một quốc gia độc lập của Đại Nam. Sự khủng hoảng của Triều Nguyễn thể hiện rõ trong khoảng thời gian từ 1883 đến 1885 với việc phế vua này, lập vua khác, qua 4 đời vua: vua Dục Đức ở ngôi 3 ngày, vua Hiệp Hòa ở ngôi 4 tháng, vua Giản Tông, niên hiệu Kiến Phúc ở ngôi hơn 7 tháng; rồi đến vua Hàm Nghi ở ngôi chưa đến 1 năm. Mọi việc càng trở nên nghiêm trọng hơn sau sự kiện thất thủ Kinh thành Huế năm 1885, vua Hàm Nghi và nhóm chủ chiến của Tôn Thất Thuyết phải chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), xuống chiếu Cần Vương. Kể từ đó, Đại Nam của triều Nguyễn đã mất hết quyền tự chủ về chính trị cũng như kinh tế và chịu sự bảo hộ của Thực dân Pháp. Phạm vi quản lý của Nam Triều Nhà Nguyễn chỉ quy cụm trong dải đất miền Trung.
Trong giai đoạn này, sự hiện diện của tiền tệ của Triều Nguyễn chủ yếu là nhằm khẳng định sự tồn tại của Vương triều, còn vấn đề lưu thông gần như đóng vai trò thứ yếu và bị giới hạn trong phạm vi hẹp. Điều này cũng dễ hiểu là do sự “bảo hộ” hoàn toàn của Pháp và hệ thống tiền Đông Dương của người Pháp đưa ra cho mục đích lưu thông trên toàn cõi Đông Dương. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy một vài chính sách liên quan đến lưu thông tiền tệ như sau :
Sách Đồng Khánh - Khải Định Chính Yếu viết : “Đồng Khánh năm thứ 3 (1888), tháng 8, Tổng thống chánh toàn quyền Di Sô, Quyền toàn quyền Ba Tô vào yết kiến bàn định về số lượng tiền từ Bắc kỳ chuyển vào trong 4 năm (sang năm chở vào Kinh : 50 vạn quan, năm thứ 2 : 100 vạn quan, năm thứ 3 :150 vạn quan, năm thứ 4 : 200 vạn quan) và việc trả lại kinh thành cho nhân dân vào ở…”..

Sách Đại Nam thực lục viết: “Năm Giáp Ngọ, Thành Thái thứ 6 (1894), Tháng Giêng… 0476. Chuẩn cho dùng tiền đồng hiệu Đồng Khánh 1 đồng ăn 10 đồng tiền kẽm (trước Nha Thông bảo vâng lệnh đúc được 290 cân, bộ Hộ tâu lên, chuẩn sao ra các nơi thi hành để được lưu thông)”.
“Năm Đinh Dậu, Thành Thái thứ 9 (1897), Tháng 4… 0747. Ban dụ định lệ cấp giấy chứng nhận thưởng kim khánh kim tiền kim bội.”
Sách Đại Nam thực lục: “Năm Mậu Thân, Duy Tân thứ 2 (1908), Tháng 5… 1528. Chuẩn cho Phủ nội vụ kiểm lại các loại Bảo sao và tiền đồng hiệu Tự Đức cùng tiền đồng mỹ hiệu, tiền đồng cổ hiệu, mỗi hạng trích giữ lại để bảo tồn vết cũ (Bảo sao và tiền đồng từ 10 văn, 20 văn tới 60 văn cộng 6 hạng, mỗi loại lưu 100 đồng, tiền đồng mỹ hiệu 30 đồng, tiền đồng cổ hiệu 3.600 đồng), còn các hạng Bảo sao và tiền cổ hiệu có tự dạng không rõ ràng cùng các hiệu tiền đồng tiền chì đều phát cho Nha Thông bảo Thanh Hóa đúc tiền.”
Sách Đồng Khánh Khải Định Chính Yếu viết : “Đến tháng 9 năm thứ 5 (1920), chuẩn cho thông dụng các loại tiền trong dân gian…”.
Như vậy, mặc dù dưới sự bảo hộ toàn phần của Thực dân Pháp nhưng việc lưu thông tiền tệ vẫn được Triều Nguyễn duy trì và có những chính sách quản lý nhất định.
Tiền tệ giai đoạn cuối triều Nguyễn (1883 - 1945)
Tiền đời vua Nguyễn Giản Tông (12/1883 - 8/1884)
Vua Tự Đức mất (tháng 6 năm Quý Mùi -1883), Thụy Quốc công Ưng Chân lên ngôi, đặt niên hiệu là Dục Đức. Nhưng mới được 3 ngày đã bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phế bỏ, đưa em út của Tự Đức là Lãng quận công Hồng Dật lên ngôi, đặt niên hiệu là Hiệp Hòa. Tiếp đấy, Hồng Dật cũng bị giết. Dục Đức, Hiệp Hòa tuy có miếu hiệu nhưng không đúc tiền.
Ngày 01 tháng 11 năm Quý Mùi (1884), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lập hoàng tử thứ 3 của vua Tự Đức là Ưng Đăng lên làm vua, tức Nguyễn Giản Tông, niên hiệu là Kiến Phúc. Tuy nhiên việc vua Kiến Phúc và Triều đình có đúc tiền hay không thì không thấy Quốc sử quán nhắc đến.

Sách Đại Nam thực lục có ghi: “Giáp Thân, Kiến Phúc năm 1, tháng 10... định lệ tiền. Tháng 11, mở cục đúc tiền ở Nha Đốc công kho Vũ Khố (trích sai tên thợ làm khuôn ở Hà Nội, một tên thợ đúc đem đủ các đồ dùng về Kinh để dạy tập đúc tiền)...”. Việc đúc tiền được nhắc đến đây rõ ràng là việc đúc tiền của Vua Hàm Nghi vì tháng 8/1884, Hàm Nghi đã chính thức lên ngôi và vẫn dùng niên hiệu của Kiến Phúc cho đến hết năm 1884, để đầu năm 1885 mới dùng Hàm Nghi nguyên niên. Tuy nhiên, trên thực tế cũng tồn tại nhiều tiêu bản tiền Kiến Phúc bằng kẽm, đồng hay bạc được tìm thấy nhưng những hiện vật này tồn tại rất nhiều nghi vấn và cần nghiên cứu tiếp theo.
Đón đọc Kỳ I: Tiền đời vua Hàm Nghi (8/1884 – 8/1885)
Nguồn: Tác phẩm ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm
Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/tien-cac-doi-vua-trieu-nguyen-giai-doan-1883-1945-171988.html