Tiền gửi chịu sức ép bởi chứng khoán, bất động sản; Cá mập giảm mua vàng

Tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp tư nhân, thị trường vàng ngày càng khó đoán, ngân hàng lúng túng với tài sản số, tiền gửi cạnh tranh bởi chứng khoán và bất động sản, chưa cấp phép cho sàn forex nào... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.

Giảm lãi suất, cho vay tín chấp với doanh nghiệp tư nhân: Minh bạch để tạo niềm tin

Theo ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, lâu nay, nhiều ngân hàng tập trung cho vay doanh nghiệp lớn, ngại cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Bộ Chính trị đặt ra nhiệm vụ về cắt bỏ rào cản tiếp cận đất đai, tín dụng, dữ liệu, nhân lực chất lượng cao… với doanh nghiệp tư nhân. Điều này mở ra cơ hộ tiếp cận vốn nhiều hơn với doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Doanh nghiệp tư nhân vốn là đối tượng phục vụ được các ngân hàng thương mại nhắm đến. Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN), ông Đào Minh Tú cho biết, dư nợ tín dụng cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân tính đến cuối năm 2024 đạt khoảng 7 triệu tỷ đồng, tăng 14,7% so với năm 2023, chiếm 44% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.

Trong đó, 100 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, với tổng dư nợ 2,74 triệu tỷ đồng, tăng 10,7% so với cuối năm 2023, chiếm 17,6% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Hiện có 208.992 doanh nghiệp nhỏ và vừa gần như là kinh tế tư nhân có dư nợ vay vốn ngân hàng.

“Với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, NHNN xác định là đối tượng ưu tiên cho vay với lãi suất ưu đãi, khi lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND thấp hơn các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh thông thường, hiện là 4%/năm”, Phó thống đốc Đào Minh Tú cho biết.

Bà Phùng Thị Bình, Phó tổng giám đốc Agribank nhận định, đóng góp của kinh tế tư nhân là rất lớn cho nền kinh tế. Đối với Agribank, tổng dư nợ hiện là hơn 1,7 triệu tỷ đồng, thì có tới 65% là cho vay nông nghiệp, nông thôn và nông dân, trong đó phần lớn là cho vay các hộ kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó, Agribank có gần 500.000 tỷ đồng dư nợ cho vay pháp nhân, trong đó 90% là doanh nghiệp tư nhân.

Mặc dù quy mô dư nợ tín dụng với khối doanh nghiệp tư nhân ngày càng tăng, song thực tế, 70% doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa thể tiếp cận vốn ngân hàng. Trong đó, rào cản lớn nhất là tài sản đảm bảo. Các doanh nghiệp kỳ vọng, tới đây, ngành ngân hàng sẽ có những chính sách cụ thể để triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW, từ đó khai thông dòng tín dụng với doanh nghiệp tư nhân.

Nghị quyết 68-NQ/TW đặt ra nhiệm vụ phải rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng cho kinh tế tư nhân. Có chính sách ưu tiên một phần nguồn tín dụng thương mại dành cho doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, vay để đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ mới, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và tín dụng xuất khẩu, tín dụng theo chuỗi cung ứng.

Khuyến khích các tổ chức tài chính, tín dụng cho vay dựa trên cơ sở thẩm định phương thức sản xuất - kinh doanh, phương án mở rộng thị trường đầu ra, cho vay dựa trên dữ liệu, dòng tiền, chuỗi giá trị, xem xét các tài sản bảo đảm gồm cả động sản, tài sản vô hình, tài sản hình thành trong tương lai và hình thức cho vay tín chấp.

Đẩy mạnh phát triển tín dụng xanh; Nhà nước có cơ chế hỗ trợ lãi suất và khuyến khích các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho doanh nghiệp tư nhân vay để triển khai các Dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG).

Tinh thần của Nghị quyết 68-NQ/TW khiến nhiều doanh nghiệp hết sức phấn khởi vì đã nhắm vào những vướng mắc lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay. Đối với vấn đề tiếp cận vốn, theo ông Lương Quốc Toản, Phó tổng giám đốc Công ty Giấy và Bao bì Phú Giang (Bắc Ninh), hiện các ngân hàng chỉ ưu tiên nhận tài sản thế chấp là bất động sản, mà không muốn nhận tài sản thế chấp là máy móc thiết bị, hàng tồn kho. Điều này khiến doanh nghiệp khó khăn trong nâng hạn mức tín dụng, tiếp cận vốn kịp thời.

Nhiều doanh nghiệp cũng than phiền rằng, dù họ có “tuổi đời” nửa thế kỷ, hàng hóa xuất khẩu đi hàng chục nước trên thế giới, được bạn hàng tin tưởng, song ngân hàng vẫn không dám cho vay tín chấp.

Tuy vậy, nhìn từ góc độ ngân hàng, họ cũng có thế khó riêng. Phó tổng giám đốc một ngân hàng thương mại lớn cho hay, các ngân hàng khi cho vay phải tuân thủ quy trình chặt chẽ để đảm bảo không bị mất vốn. Một khi xảy ra nợ xấu có khả năng mất vốn, không chỉ ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng, mà cán bộ tín dụng còn có nguy cơ bị xử lý hình sự.

“Chưa kể, tình trạng một doanh nghiệp có hai báo cáo tài chính - một báo cáo lãi để làm hồ sơ vay vốn ngân hàng và một báo cáo lỗ để gửi cơ quan thuế - đã trở thành phổ biến. Với tình trạng này, ngân hàng rất khó để tin tưởng cho vay thế chấp. Nếu được liên thông dữ liệu với ngành thuế, được tiếp cận báo cáo tài chính thực của doanh nghiệp, việc cho vay tín chấp không còn quá khó khăn”, vị Phó tổng giám đốc cho biết.

Ông Nguyễn Văn Thân thừa nhận, ngân hàng cũng là doanh nghiệp, kinh doanh phải có lãi, phải đảm bảo an toàn vốn. Vì vậy, để ngân hàng yên tâm cho vay, doanh nghiệp phải thật sự minh bạch và phải chứng minh cho ngân hàng thấy được tiềm năng phát triển của mình.

Theo các chuyên gia, tỷ lệ sử dụng đòn bẩy tín dụng ở Việt Nam thuộc nhóm cao nhất thế giới, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho cả ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Vì vậy, doanh nghiệp nên mở rộng kênh tiếp cận vốn, không nên quá phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.

“Cá mập” giảm mua, thị trường vàng ngày càng khó đoán

Yếu tố thúc đẩy giá vàng tăng vẫn còn, song những rủi ro khiến giá vàng “quay đầu” cũng rất lớn. Chuyên gia cho rằng, nhà đầu tư nên coi vàng là kênh trú ẩn, thay vì kênh đầu tư.

Báo cáo về xu hướng nhu cầu vàng quý I/2025 của Hội đồng Vàng thế giới (WGC) cho thấy, tổng nhu cầu vàng theo quý (bao gồm cả thị trường phi tập trung - OTC) là 1.206 tấn, tăng 1% so với cùng kỳ năm ngoái, trong bối cảnh giá vàng cao kỷ lục, vượt ngưỡng 3.000 USD/ounce. Như vậy, cầu vàng thế giới quý I/2025 đã giảm tốc so với tốc độ tăng trưởng quý I/2024 (tăng 3%).

Đặc biệt, khối ngân hàng trung ương - động lực tăng trưởng giá vàng những năm gần đây - tiếp tục mua ròng, song cầu vàng của khối này trong quý I/2025 đã giảm 21% so với cùng kỳ năm trước.

Trong nước, cầu vàng quý I/2025 tăng 46% so với quý IV/2024, nhưng giảm 15% so với cùng kỳ, một phần do cung khan hiếm, một phần do quý I/2024, cầu vàng tại Việt Nam cao nhất trong vòng 10 năm.

TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế cảnh báo, nhà đầu tư cần thận trọng với vàng lúc này, vì dư địa tăng giá không còn nhiều và đang trong tình thế có thể quay đầu bất kỳ lúc nào. Hơn nữa, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới đã lên tới 18 triệu đồng/lượng, đồng nghĩa nhà đầu tư phải chịu rất nhiều rủi ro nếu giá vàng thế giới điều chỉnh.

Những tuần gần đây, đà tăng của giá vàng cũng chững lại. Trong quý I/2025, động lực tăng trưởng cầu vàng toàn cầu là dòng tiền đổ vào các quỹ hoán đổi danh mục (ETF) vàng tăng mạnh. Tổng nhu cầu đầu tư của các quỹ ETF vàng tính tới cuối quý I/2025 tăng lên 552 tấn, tăng 170% so với cùng kỳ năm ngoái và đạt mức cao nhất kể từ quý I/2022. Tuy vậy, dòng tiền đổ vào các quỹ ETF thường xoay chuyển rất nhanh và bất kỳ lúc nào.

Về xu hướng thị trường vàng thời gian tới, bà Louise Street, chuyên gia phân tích thị trường cấp cao tại WGC cho rằng, bức tranh kinh tế tổng thể vẫn khó dự đoán. Sự không chắc chắn đó có thể thúc đẩy giá vàng tăng, nhà đầu tư tiếp tục tìm đến vàng như một tài sản lưu trữ an toàn từ các tổ chức, cá nhân.

Mặc dù vậy, khi thời điểm 90 ngày hoãn thuế đối ứng ngày càng rút ngắn, nhiều chuyên gia phân tích khuyến cáo, nhà đầu tư cẩn trọng trước nguy cơ giá vàng có thể “quay đầu” trong trường hợp rủi ro thương mại giảm bớt, thương chiến dịu dần. Nếu khả năng này xảy ra, rất có thể vàng thế giới sẽ trở về vùng giá 3.000 USD/ounce.

Tính tới đầu tuần này, chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế đã lên tới 19 triệu đồng/lượng, mức cao nhất từ trước đến nay, cao hơn cả thời điểm trước khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) can thiệp thị trường vàng. Trong báo cáo vừa gửi Quốc hội, Thống đốc NHNN thừa nhận, chênh lệch giá vàng tăng mạnh trở lại từ đầu tháng 4/2025 đến nay do 3 nguyên nhân chính.

Một là, tâm lý kỳ vọng việc giá vàng thế giới tiếp tục tăng trong bối cảnh các chính sách thuế quan của Chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump dự kiến tác động tiêu cực đến kinh tế toàn cầu; lộ trình chính sách tiền tệ khó lường của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed); diễn biến địa chính trị thế giới căng thẳng; các cú sốc giá cả hàng hóa có thể phát sinh khiến nhu cầu mua vàng tăng.

Hai là, nguồn cung vàng miếng trên thị trường chưa được tăng thêm từ đầu năm 2025 đến nay, thị trường ngoại hối và thị trường vàng tương đối ổn định, nên từ đầu năm 2025 đến nay, NHNN không phải can thiệp thị trường.

Ngoài các nguyên nhân trên, không loại trừ nguyên nhân thứ ba là có một số doanh nghiệp, cá nhân lợi dụng tình hình biến động của thị trường để đầu cơ, thổi giá, trục lợi.

Dù vậy, NHNN cho rằng, diễn biến của thị trường vàng hiện nay chưa tác động đến điều hành chính sách tiền tệ.

Thực tế, khi tỷ giá, lãi suất chịu nhiều sức ép như hiện nay, khả năng NHNN hy sinh ngoại hối để tăng cung cho thị trường vàng là khó xảy ra, bởi vàng không phải là mặt hàng thiết yếu.

Trong bối cảnh thị trường vàng đứng trước nhiều rủi ro và khả năng NHNN can thiệp thị trường rất thấp, ông Phan Dũng Khánh, chuyên gia tài chính khuyến nghị, nhà đầu tư nên coi vàng là hầm trú ẩn, thay vì kênh đầu tư. Các yếu tố hỗ trợ vàng tăng giá đang suy yếu và chắc chắn không còn giữ được đà tăng nhanh như thời gian qua. Trước mắt, giá vàng vẫn sẽ neo ở mức cao do kinh tế thế giới vẫn đang trong giai đoạn bất ổn. Tuy vậy, ở giai đoạn này, nhà đầu tư chỉ nên coi vàng là kênh cất trữ, nếu lướt sóng sẽ rất nguy hiểm.

Ngân hàng lúng túng với tài sản số, tiền mã hóa

Nhiều doanh nghiệp “ngỏ ý” muốn ngân hàng nhận tài sản số (tiền mã hóa, phần mềm…) làm tài sản thế chấp. Tuy vậy, không chỉ hành lang pháp lý chưa có, mà rủi ro quá lớn khiến ngân hàng còn ngại ngần.

Ông Nguyễn Kim Hùng, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Kim Nam cho hay, rất nhiều doanh nghiệp sở hữu sản phẩm phần mềm có giá trị thương mại lớn, song không được ngân hàng định giá, không được tính là tài sản đảm bảo. Nhiều doanh nghiệp muốn phát hành token để huy động vốn toàn cầu, nhưng không thể triển khai do vướng hành lang pháp lý. Trong khi đó, trên thế giới, cuộc đua công nghệ số ngày càng tăng tốc.

“Chúng tôi rất mong cơ quan hữu trách nghiên cứu, xem xét ban hành sớm quy định định danh tài sản số, phương pháp định giá tài sản số cho doanh nghiệp để có thể tiếp cận các nguồn vốn từ ngân hàng thương mại, từ đó đầu tư vào ngắn hạn, trung và dài hạn. Nếu chúng ta tháo gỡ được, thì dòng tiền từ ngân hàng chảy vào cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tốt hơn”, ông Hùng kiến nghị.

Theo các chuyên gia, Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số đã bước đầu xác lập khái niệm tài sản số và quyền sở hữu với tài sản này. “Đây là bước đi quan trọng mở đường cho việc xác lập và giao dịch bảo đảm đối với tài sản số trong tương lai”, TS. Lê Thị Giang, Trường đại học Luật Hà Nội nhấn mạnh.

Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam nên nghiên cứu ban hành luật hoặc nghị định riêng về tài sản số, quy định rõ trách nhiệm của các bên liên quan như nhà phát hành, sàn giao dịch, nhà đầu tư và yêu cầu cấp phép hoạt động. Mặt khác, tăng cường giám sát chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, yêu cầu sàn giao dịch đăng ký với cơ quan quản lý.

Trước mắt, có thể ban hành quy chế sandbox cho phép một số ngân hàng hoặc tổ chức tài chính thí điểm cho vay thế chấp bằng tài sản số trong 3-5 năm; đánh giá kết quả thí điểm để điều chỉnh khung pháp lý, đảm bảo cân bằng giữa đổi mới và kiểm soát rủi ro; ưu tiên các tài sản số có tính thanh khoản cao trong giai đoạn thử nghiệm; xem xét thành lập cơ quan chuyên trách giám sát thị trường tài sản số, đảm bảo tuân thủ quy định về vốn, quản trị rủi ro và chống rửa tiền…

Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI cho biết, theo quy định, tài sản được thế chấp nếu đáp ứng hai điều kiện là có quyền sở hữu và không bị cấm giao dịch. Tiền mã hóa đáp ứng hai điều kiện này, về lý thuyết, có thể được sử dụng làm tài sản đảm bảo. Song thực tế, không ngân hàng nào dám nhận tiền mã hóa để giao dịch đảm bảo, một phần do Ngân hàng Nhà nước đã có chỉ thị, một phần do rủi ro quá lớn.

“Nhận tài sản đảm bảo là để phòng ngừa rủi ro, nhưng chính tài sản đảm bảo lại rủi ro quá lớn, thì ngân hàng e ngại là dễ hiểu”, ông Đức nhận xét.

Theo ông Giacomo Merello, Chủ tịch Hội đồng Thúc đẩy Kinh doanh tài sản Kỹ thuật số Antigua và Barbuda, Đặc phái viên kinh tế đặc biệt của Thủ tướng Antigua và Barbuda tại Singapore, trên thế giới, một số nước đã cho phép sử dụng tài sản số nói chung, tiền mã hóa nói riêng làm tài sản thế chấp tại ngân hàng. Cụ thể, Singapore công nhận stable coin là một loại tài sản. Thụy Sỹ cho phép các ngân hàng cung cấp khoản vay được bảo lãnh bằng tiền mã hóa, song dịch vụ này chủ yếu cung cấp cho các quỹ đầu tư, các doanh nghiệp lớn, không áp dụng cho cá nhân nhỏ lẻ.

Ông Giacomo Merello thừa nhận, tại nhiều quốc gia, việc chấp nhận tiền mã hóa là tài sản thế chấp chỉ triển khai ở các ngân hàng số (đa phần là ngân hàng nhỏ, trung bình) và chỉ áp dụng cho các khách hàng lớn. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại lớn và lâu đời vẫn rất bảo thủ, hầu như không chấp nhận tiền mã hóa là tài sản đảm bảo. Khả năng ngân hàng Việt Nam chấp nhận tài sản số là tài sản đảm bảo, thậm chí tham gia lĩnh vực này là rất hạn chế.

Mới đây, trả lời cổ đông về việc tham gia lập sàn giao dịch tài sản số (dự thảo đang được Bộ Tài chính xây dựng), lãnh đạo BIDV cho hay, với vai trò là ngân hàng thương mại trong nước, BIDV sẽ tích cực tham gia với các bộ, ngành để triển khai. Song việc lập sàn giao dịch tài sản số BIDV sẽ “dành” cho khối doanh nghiệp tư nhân.

“BIDV không có kế hoạch lập công ty triển khai sàn này, vì điều này đòi hỏi vốn lớn, chưa kể kỹ thuật và yếu tố khác. Tuy nhiên, BIDV sẽ tham gia thị trường với tư cách là một ngân hàng phục vụ thanh toán và các nghiệp vụ liên quan”, lãnh đạo BIDV khẳng định.

Sự thận trọng của ngân hàng với tài sản số, đặc biệt là tiền mã hóa là rất dễ hiểu. Tuy vậy, theo các chuyên gia, trong bối cảnh tài sản số tăng trưởng mạnh, vẫn cần hành lang pháp lý về vấn đề này. Tất nhiên, chấp nhận hay không sẽ tùy khẩu vị rủi ro của từng ngân hàng.

Theo luật sư Vũ Văn Tính, Giám đốc Công ty Luật TNHH Salus, cần bổ sung định nghĩa về tài sản số vào Bộ luật Dân sự. Đồng thời, cần ban hành luật hoặc nghị định riêng về tài sản số, ban hành cơ chế sandbox cho phép một số ngân hàng hoặc tổ chức tài chính thí điểm cho vay thế chấp bằng tài sản số trong 3-5 năm.

Lãi suất sẽ chịu sức ép do tiền gửi đang bị cạnh tranh bởi chứng khoán, bất động sản

Ngân hàng Nhà nước cho biết, mặt bằng lãi suất có nhiều sức ép trong thời gian tới, một phần do cầu vốn tăng trong huy động vốn bị cạnh tranh từ các kênh đầu tư khác như bất động sản, thị trường chứng khoán.

Trong báo cáo vừa gửi tới Quốc hội về việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về chất vấn, Thống đốc ngân hàng Nhà nước cho biết, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì lãi suất điều hành ở mức thấp để định hướng thị trường giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, đồng thời, tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí hoạt động, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và các giải pháp khác để phấn đấu hạ lãi suất cho vay. Ngân hàng Nhà nước cũng đã làm việc trực tiếp và có công văn chỉ đạo toàn hệ thống tổ chức tín dụng ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.

Đến ngày 10/4/2025, lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng thương mại ở mức 6,34%/năm, giảm 0,6%/năm so với cuối năm 2024.

Riêng tỷ giá và thị trường ngoại tệ thời gian qua chịu áp lực lớn, đa chiều và thay đổi nhanh chóng do diễn biến kinh tế - chính trị quốc tế khó lường, đặc biệt là chính sách thuế quan của chính quyền Mỹ, USD quốc tế biến động nhanh, gây áp lực lên các đồng tiền.

Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước điều hành tỷ giá linh hoạt, phối hợp các công cụ chính sách tiền tệ (điều tiết thanh khoản, lãi suất) và can thiệp khi cần thiết để ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Nhờ đó, thị trường ngoại tệ duy trì ổn định, thanh khoản ngoại tệ thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của nền kinh tế được đáp ứng đầy đủ, kịp thời; tỷ giá VND diễn biến tăng/giảm theo cả hai chiều, phù hợp với xu hướng chung của các đồng tiền quốc tế so với USD.

Đến ngày 22/4/2025, tỷ giá VND/USD giao dịch quanh mức 25.896 VND/USD, tăng 1,64% so với cuối năm 2024.

Mặc dù điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua giữ được ổn định, song Ngân hàng Nhà nước cho biết nhiều thách thức đang ở phía trước.

Lạm phát tiềm ẩn áp lực tăng trong bối cảnh độ mở nền kinh tế Việt Nam rất lớn, giá cả hàng hóa thế giới biến động do tác động của diễn biến địa chính trị phức tạp, xu hướng gia tăng về bảo hộ thương mại, an ninh lương thực tại các quốc gia, lộ trình điều chỉnh giá các mặt hàng, dịch vụ nhà nước quản lý, biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan…

Mặt bằng lãi suất có nhiều sức ép trong thời gian tới do một số nguyên nhân: Lãi suất cho vay đã có xu hướng giảm sâu thời gian qua; Nhu cầu vốn tín dụng cho sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng dự kiến gia tăng mạnh mẽ trong thời gian tới để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025, trong khi đó huy động vốn toàn hệ thống tổ chức tín dụng có thể bị ảnh hưởng và cạnh tranh từ các kênh đầu tư khác (như bất động sản, thị trường chứng khoán); Mặt bằng lãi suất thế giới có xu hướng giảm nhưng vẫn duy trì ở mức cao và thị trường tài chính toàn cầu khó đoán định sau khi Mỹ tuyên bố chính sách thuế đối ứng.

Ngân hàng Nhà nước cũng nhận định, tỷ giá và thị trường ngoại tệ thời gian tới khả năng tiếp tục chịu áp lực lớn từ các yếu tố phức tạp trên thị trường quốc tế (các chính sách thuế quan của Chính quyền Tổng thống Trump dự kiến tác động tiêu cực đến kinh tế toàn cầu; lộ trình chính sách tiền tệ khó lường của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed); diễn biến địa chính trị, các cú sốc giá cả hàng hóa…) và khó khăn ở trong nước (chênh lệch lãi suất VND và USD, nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế duy trì cao…).

Kiểm soát sở hữu chéo vẫn khó do "đứng tên hộ", nhiều DNNN chưa chịu thoái vốn khỏi ngân hàng

Hiện vẫn còn tồn tại tình trạng sở hữu cổ phần vượt giới hạn tại ngân hàng thương mại là doanh nghiệp nhà nước với tỷ lệ sở hữu khá lớn, các ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong việc yêu cầu cổ đông này thực hiện thoái vốn.

Trong báo cáo vừa gửi tới Quốc hội về việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về chất vấn, Thống đốc ngân hàng Nhà nước cho biết, những năm qua, Ngân hàng Nhà nước đã tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý và quyết liệt triển khai các giải pháp ngăn ngừa, xử lý sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định, sở hữu chéo, cho vay, đầu tư không đúng quy định cùng với quá trình cơ cấu lại tổ chức tín dụng.

Cụ thể, Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đã bổ sung các quy định giúp tăng cường ngăn ngừa tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các tổ chức tín dụng.

Ngân hàng Nhà nước cũng tiếp tục chỉ đạo ngăn ngừa, xử lý sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định, sở hữu chéo, cho vay, đầu tư không đúng quy định. Theo đó, sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định, sở hữu chéo trong hệ thống tổ chức tín dụng từng bước được xử lý, tình trạng cổ đông/nhóm cổ đông lớn, thao túng, chi phối ngân hàng đã được hạn chế.

Đến nay, sở hữu chéo giữa tổ chức tín dụng và người có liên quan của tổ chức tín dụng góp vốn, mua cổ phần tại tổ chức tín dụng khác đã giảm đáng kể (khắc phục được tình trạng sở hữu cổ phần của ngân hàng thương mại tại một tổ chức tín dụng khác vượt tỷ lệ quy định trên 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết của tổ chức tín dụng khác).

Cổ đông, cổ đông và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định chủ yếu còn tại các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước cần tiếp tục chỉ đạo xử lý nhằm tập trung vốn cho hoạt động kinh doanh chính và sử dụng vốn có hiệu quả hơn.

Ngân hàng Nhà nước cho biết, việc sở hữu chéo có thể liên quan đến nhiều đối tượng thuộc sự quản lý của các bộ/ngành, trong đó hiện nay còn tồn tại tình trạng sở hữu cổ phần vượt giới hạn tại NHTM là doanh nghiệp nhà nước với tỷ lệ sở hữu khá lớn, các NHTM gặp khó khăn trong việc yêu cầu cổ đông này thực hiện thoái vốn.

Liên quan tới công tác phát hiện, ngăn ngừa và xử lý tình trạng sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các tổ chức tín dụng, Thống đốc thừa nhận gặp rất nhiều khó khăn.

Cụ thể, việc kiểm soát sở hữu chéo rất khó khăn trong trường hợp cổ đông và người có liên quan của cổ đông cố tình che dấu, nhờ cá nhân/tổ chức khác đứng tên hộ số cổ phần sở hữu để lách quy định của pháp luật về sở hữu chéo/sở hữu vượt mức quy định hoặc lách quy định về giới hạn cấp tín dụng nhóm khách hàng liên quan, tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông và người có liên quan. Điều này dẫn tới tiềm ẩn nguy cơ hoạt động của tổ chức tín dụng thiếu công khai, minh bạch, đồng thời, việc này chỉ có thể được phát hiện và nhận diện thông qua công tác điều tra, xác minh của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật.

Việc phát hiện mối liên quan giữa các doanh nghiệp còn hạn chế do thông tin để xác định tính liên quan về sở hữu của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp không phải là công ty đại chúng rất khó khăn, NHNN không chủ động được trong việc tra cứu thông tin cũng như xác định được độ chính xác, tin cậy của các nguồn thông tin; đặc biệt trong bối cảnh thị trường chứng khoán, công nghệ phát triển nhanh như hiện nay.

Để phát hiện và ngăn chặn sở hữu chéo, Ngân hàng Nhà nước cho biết, thời gian tới, cơ quan này tiếp tục thực hiện giám sát an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng và qua công tác thanh tra về vốn, tình hình sở hữu cổ phần của tổ chức tín dụng, hoạt động cho vay, đầu tư, góp vốn... trường hợp phát hiện rủi ro, vi phạm, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo tổ chức tín dụng xử lý các tồn tại nhằm ngăn ngừa rủi ro.

Đồng thời, các bộ, ban ngành, đơn vị chủ quản của doanh nghiệp cần quan tâm chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện việc đầu tư, góp vốn mua cổ phần tại các tổ chức tín dụng tuân thủ quy định, sử dụng nguồn vốn đi vay, đặc biệt vốn vay từ các tổ chức tín dụng đúng mục đích, hiệu quả đảm bảo an toàn và trả nợ đúng hạn cho các tổ chức tín dụng.

Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện công tác thanh tra theo Kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt, hoặc thanh tra đột xuất (nếu cần thiết), trong đó quan tâm thanh tra các nội dung về tỷ lệ sở hữu cổ phần; mua bán, chuyển nhượng cổ phần của ngân hàng, cấp tín dụng đối với khách hàng/nhóm khách hàng lớn (cho vay, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp...) nhằm phát hiện, chỉ đạo xử lý khắc phục các tồn tại, vi phạm trong hoạt động, nhất là các sai phạm về hoạt động cấp tín dụng, đầu tư, góp vốn, mua cổ phần của các tổ chức tín dụng.

Đồng thời, sẽ rà soát nghiên cứu tham mưu sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật nếu cần thiết nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về sở hữu cổ phần theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024.

Ngân hàng đua công nghệ, giảm nhân sự để giảm chi phí

Hàng loạt ngân hàng tuyên bố mạnh tay đầu tư công nghệ, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào quản trị điều hành, cũng như cắt giảm nhân sự để giảm chi phí hoạt động.

Lãnh đạo nhiều ngân hàng thương mại cổ phần cho hay, mặt bằng lãi suất huy động đang chịu rất nhiều áp lực do sự nóng lên của nhiều kênh đầu tư khác, trong khi Chính phủ và ngân hàng Nhà nước vẫn định hướng lãi suất cho vay phải giảm thêm để hỗ trợ nền kinh tế. Trong bối cảnh này, các ngân hàng cắt giảm chi phí để có thêm dư địa giảm lãi vay. Tuy nhiên, chi phí vốn - chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chi phí hoạt động của ngân hàng - không có khả năng giảm thêm. Chính vì vậy, các ngân hàng đang tìm cách cắt giảm chi phí hoạt động khác, trong đó có chi phí nhân sự.

“Ngoài chi phí vốn, với ngân hàng, chi phí lớn nhất là chi phí cho nhân sự. Tuy nhiên, việc đẩy mạnh đầu tư công nghệ đang giúp ngân hàng tiết kiệm được chi phí này”, ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc TPBank cho biết.

Được biết, năm 2024, TPBank bổ sung 500 robot để tự động hóa quy trình, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí, nhân lực. Theo đó, năm 2024, kế hoạch của Ngân hàng là quy mô nhân sự có thể tới 8.200 người, song thực tế, đến cuối năm 2024, nhân sự của ngân hàng này chỉ 7.700 người mà vẫn hoàn thành mọi mục tiêu tăng trưởng.

Năm 2025, Ngân hàng tiếp tục đổi mới công nghệ, ứng dụng AI trong hoạt động để đổi mới quy trình, tinh gọn bộ máy. Dự kiến, việc đổi mới quy trình, tinh gọn bộ máy sẽ giúp TPBank tiết giảm thêm 300-500 nhân sự, giúp giảm thêm chi phí vận hành, tối ưu hóa hoạt động.

Tại cuộc họp đại hội đồng cổ đông tổ chức sáng 25/4, ông Dương Công Minh, Chủ tịch HĐQT Sacombank cũng cho hay, ngân hàng này đang mạnh tay chuyển đổi số, giảm dần phòng giao dịch truyền thống và tiếp tục cắt giảm nhân sự.

Trước đó, VietinBank là ngân hàng đầu tiên trong nhóm 4 ngân hàng thương mại nhà nước tuyên bố sẽ cắt giảm điểm giao dịch vật lý và thay thế bằng ứng dụng nền tảng số.

"Năm 2025, chúng tôi sẽ triển khai rất nhiều hoạt động liên quan chuyển đổi số, từ đầu tư hạ tầng, phần cứng, phần mềm, đến nguồn nhân lực. Đây là một trong những ưu tiên lớn nhất của VietinBank", Chủ tịch VietinBank Trần Minh Bình cho biết.

Ông Bình cho biết, ngân hàng cũng đang thử nghiệm mô hình trung tâm dịch vụ khách hàng (contact center) ứng dụng AI, có thể thay thế đến 70% nhân sự vận hành. Trong 2 năm gần đây, VietinBank hầu như không tuyển dụng nhân sự cho các hoạt động kinh doanh truyền thống, bao gồm tín dụng, nguồn vốn. Tuy nhiên, năm 2025, VietinBank tăng cường tuyển dụng, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nâng số lượng nhân sự mảng này từ 300 người lên gần 1.000 người (gồm cả thuê ngoài) với dự kiến mức lương rất cao.

Năm 2024, có gần 30% ngân hàng niêm yết cắt giảm nhân sự. Theo khảo sát của Ngân hàng Nhà nước, quý I/2025, hơn 21% ngân hàng tiếp tục cắt giảm nhân sự. Theo các chuyên gia phân tích, việc đẩy mạnh chuyển đổi số, tái cấu trúc hoạt động sẽ khiến số phòng giao dịch vật lý và nhân sự ngân hàng tiếp tục giảm mạnh thời gian tới.

Với các ngân hàng thương mại, ứng dụng công nghệ không chỉ giúp cắt giảm chi phí, mà còn mở ra nhiều cơ hội kinh doanh mới.

"Kênh số trước đây không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng, mà chủ yếu để gia tăng tiện ích cho khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay, kết hợp với thương mại điện tử và chuyển đổi số, kênh số đang mở ra cơ hội và tiềm năng to lớn cho các ngân hàng. Ngân hàng nào đi trước sẽ có lợi thế cạnh tranh lớn", Tổng giám đốc TPBank Nguyễn Hưng nhận định.

Được biết, cách đây 2 năm, TPBank đã đầu tư hệ thống công nghệ thông tin và triển khai cho vay trên kênh số. Đến nay, ngân hàng có 4,5 triệu khách hàng vay vốn trên kênh số. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay trên kênh số đã đủ bù đắp chi phí đầu tư công nghệ và bắt đầu đóng góp tốt cả về phí và lãi cho ngân hàng.

Tại VietinBank, ông Trần Minh Bình cho biết, Ngân hàng đang mạnh tay đầu tư cho công nghệ, chuyển đổi số, đầu tư nền tảng. Hiện có tới 60% sản phẩm của ngân hàng này được đưa lên kênh số và lượng giao dịch qua kênh số chiếm tới 99% tổng lượng giao dịch của Ngân hàng.

Có thể nói, sau nhiều năm tạo lập được thói quen giao dịch trên kênh số cho khách hàng, cùng với việc mở rộng hệ sinh thái và tận dụng sức mạnh của dữ liệu lớn (big data), AI…, ngân hàng ngày càng nhuần nhuyễn trong việc bán sản phẩm, dịch vụ và tiếp cận khách hàng trên kênh số cũng như sử dụng các công nghệ này để tăng cường năng lực quản trị.

Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, thời gian qua, các ngân hàng đã ứng dụng công nghệ big data và thực tế ảo (VR) trong hoạt động cho vay với cá nhân, doanh nghiệp, giúp kết nối thanh toán trực tuyến cho nhiều loại phí, thuế và dịch vụ. Bên cạnh đó, các ngân hàng đang tích cực ứng dụng AI trong 2 lĩnh vực chính, gồm phát hiện rủi ro gian lận, rửa tiền; quản trị và phân tích dữ liệu phục vụ cho công tác dự báo và điều hành kinh doanh.

Năm nay, rất nhiều ngân hàng tuyên bố dành hàng ngàn tỷ đồng để đầu tư công nghệ nhằm cắt giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Điều này cho thấy, cạnh tranh giành “khách hàng số” giữa các ngân hàng sẽ ngày càng khốc liệt. Trong cuộc đua này, các ngân hàng vừa phải cạnh tranh với nhau, vừa phải ngăn chặn rủi ro gian lận, lừa đảo ngày càng tinh vi trên môi trường số.

Ngân hàng Nhà nước: Đang nghiên cứu tiền kỹ thuật số (CBDC), không cấp phép cho bất kỳ sàn Forex nào

Ngân hàng Nhà nước không cấp phép cho bất kỳ sàn Forex nào tại Việt Nam. Do vậy, việc thanh toán, chuyển tiền ra nước ngoài cho các giao dịch sàn Forex là giao dịch không được phép theo quy định hiện hành.

Trong báo cáo vừa gửi tới Quốc hội về thực hiện Nghị quyết về chất vấn của Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước cho biết, thời gian qua, cơ quan này đã tham khảo kinh nghiệm, nghiên cứu, triển khai Dự án tiền kỹ thuật số của một số ngân hàng trung ương trên thế giới.

Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước đã tham gia các hội thảo, tọa đàm, khóa đào tạo để trao đổi, học hỏi, thảo luận với các chuyên gia đến từ các tổ chức quốc tế (như IMF, BIS, WB…), đồng thời tham gia với vai trò Quan sát viên dự án CBDC mBridge của 4 ngân hàng trung ương (Trung Quốc, Hồng Kông, Thái Lan, Các tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất) cũng như nghiên cứu tài liệu, báo cáo đã công bố của các ngân hàng trung ương, tổ chức quốc tế về CBDC.

Thực hiện nhiệm vụ là Cơ quan thường trực Tổ công tác nghiên cứu, tham mưu về tiền kỹ thuật số quốc gia, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động nghiên cứu, phối hợp với các bộ, ngành, xây dựng và có Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện nhiệm vụ của Tổ công tác; đã ban hành Quyết định về Kế hoạch triển khai nhiệm vụ Tổ công tác.

NHNN cũng đã phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan nghiên cứu về CBDC và báo cáo Thủ tướng tình hình triển khai CBDC các nước và đề xuất giao đơn vị đầu mối nghiên cứu. Hiện, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện theo các chỉ đạo của Phó thủ tướng, báo cáo và phối hợp với các đơn vị liên quan đề xuất các nội dung liên quan.

Về nhiệm vụ liên quan đến tăng cường thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân thành lập các sàn giao dịch ngoại hối (Forex) trái quy định của pháp luật (Nghị quyết số 173/2024/QH15), Thống đốc cho hay, hoạt động sàn Forex không thuộc phạm vi hoạt động ngoại hối được phép trong lĩnh vực quản lý ngoại hối, do đó, đến nay, Ngân hàng Nhà nước không cấp phép cho bất kỳ sàn Forex nào tại Việt Nam.

Việc thanh toán, chuyển tiền ra nước ngoài (nếu có) cho các giao dịch sàn Forex là giao dịch không được phép theo quy định hiện hành về quản lý ngoại hối.

Hoạt động sàn Forex trái phép được thực hiện trên không gian mạng, vì vậy để phát hiện, ngăn chặn và xử lý hoạt động này cần có sự phối hợp phát hiện và xử lý kịp thời của cơ quan chức năng như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (thực hiện chức năng thông tin truyền thông), Bộ Công an, Bộ Công thương…

Trong thời gian qua, nhằm phục vụ công tác xác minh, điều tra các vụ án lừa đảo, chiếm đoạt tài sản liên quan đến hoạt động của các sàn Forex trên không gian mạng, Ngân hàng Nhà nước đã cung cấp thông tin về khung pháp lý hiện hành về quản lý ngoại hối gửi Bộ Công an và Cơ quan cảnh sát điều tra các tỉnh, thành phố.

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có văn bản gửi Bộ Thông tin và Truyền thông (trước đây) đề nghị có biện pháp quản lý các sàn giao dịch Forex trên không gian mạng. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp để phòng ngừa, ngăn chặn việc lợi dụng để thanh toán cho các giao dịch bất hợp pháp, trong đó bao gồm thanh toán cho hoạt động của sàn Forex.

Thùy Liên

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/tien-gui-chiu-suc-ep-boi-chung-khoan-bat-dong-san-ca-map-giam-mua-vang-d281756.html