Tín dụng 'may đo' cho doanh nghiệp ngành trọng điểm
Các ngân hàng tung gói tín dụng 'may đo' cho từng ngành trọng điểm, vừa tiếp sức vốn ngắn hạn, vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững cuối 2025.
Gói vốn “may đo” cho từng ngành
Điểm đáng chú ý của thị trường tín dụng cuối năm nay là thay vì đưa ra các gói vốn ưu đãi đại trà, nhiều ngân hàng đã chủ động thiết kế sản phẩm chuyên biệt, phù hợp với nhu cầu từng ngành. Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank) vừa ra mắt gói giải pháp tài chính dành riêng cho doanh nghiệp dệt may và sản xuất sợi, bao gồm ưu đãi tín dụng, miễn phí thanh toán quốc tế, hỗ trợ chiết khấu chứng từ xuất khẩu, giúp doanh nghiệp tiết giảm chi phí giao dịch và có thêm nguồn lực xoay vòng vốn nguyên liệu. Đây là lĩnh vực xuất khẩu chủ lực, vốn chịu áp lực lớn từ biến động đơn hàng thời điểm cuối năm, nên gói tín dụng “may đo” trở thành cú hích kịp thời.
Ông Khương Đức Tiệp, Giám đốc Khối SME, ABBANK cho biết: “Ngành may mặc và sản xuất sợi đóng vai trò quan trọng trong chiến lược xuất khẩu và phát triển bền vững của nền kinh tế. Chúng tôi xây dựng giải pháp tài chính này dựa trên sự am hiểu sâu sắc về chu kỳ sản xuất, đặc điểm kinh doanh và nhu cầu vận hành thực tiễn của doanh nghiệp trong ngành. Điều này thể hiện cam kết đồng hành lâu dài, giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh và thích ứng tốt hơn với sự thay đổi của thị trường toàn cầu”.

Dệt may là lĩnh vực xuất khẩu chủ lực, vốn chịu áp lực lớn từ biến động đơn hàng thời điểm cuối năm, nên gói tín dụng “may đo” trở thành cú hích kịp thời cho doanh nghiệp. Ảnh: An Vân
Trong khi đó, Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) triển khai nhiều gói tín dụng theo hướng “xanh hóa”, nổi bật là gói tín dụng dệt may xanh quy mô khoảng 4.200 tỷ đồng, song hành cùng các gói tài trợ công trình xanh, dự án nước sạch, hạ tầng cảng biển. Tín dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn lưu động mà còn khuyến khích doanh nghiệp gắn tăng trưởng với tiêu chí phát triển bền vững.
Tương tự Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), cũng đưa ra hàng loạt chương trình ưu đãi dành cho doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu. Các khoản vay ngắn hạn với lãi suất cạnh tranh từ khoảng 4,3 - 5%/năm, giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong xoay vòng vốn lưu động, nhất là dịp cao điểm cuối năm khi nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu, chuẩn bị hàng Tết và xuất khẩu tăng mạnh.
Không chỉ tập trung vào xuất khẩu, các ngân hàng còn tung gói tín dụng cho công nghiệp hỗ trợ, năng lượng và hạ tầng số. Một số gói lớn quy mô hàng trăm nghìn tỷ đồng hướng tới hạ tầng, chuyển đổi số, hỗ trợ chuỗi cung ứng linh kiện, phụ trợ. Những lĩnh vực này được coi là “mạch máu” phục hồi và hiện đại hóa nền kinh tế, vì vậy việc ngân hàng dành riêng hạn mức cho thấy sự dịch chuyển chiến lược trong phân bổ vốn.
Đáng chú ý, các gói tín dụng chuyên biệt còn đi kèm nhiều chính sách hỗ trợ ngoại hối, giảm phí chuyển tiền quốc tế, ưu đãi tỷ giá, phát hành L/C chi phí thấp, chiết khấu bộ chứng từ tới 100% giá trị khoản phải thu. Với doanh nghiệp xuất khẩu, đó là cơ chế hỗ trợ toàn diện từ khâu mua nguyên liệu, sản xuất, giao dịch thanh toán đến bảo lãnh quốc tế.

Dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đến tính đến ngày 29/8 đạt 17,44 triệu tỷ đồng, tăng gần 12% so với cuối năm 2024. Ảnh Duy Minh
Tín dụng bứt phá, cao nhất trong nhiều năm qua
Theo Ngân hàng Nhà nước, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đến tính đến ngày 29/8 đạt 17,44 triệu tỷ đồng, tăng gần 12% so với cuối năm 2024. Tốc độ tăng nhanh ngay từ nửa đầu năm cho thấy tác động rõ rệt từ các giải pháp điều hành linh hoạt cũng như việc các ngân hàng tung ra những gói sản phẩm phù hợp từng ngành.
Ngân hàng Nhà nước khẳng định, định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2025 ở mức hợp lý, vừa đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế vừa bảo đảm kiểm soát rủi ro. Mục tiêu ban đầu đặt ra khoảng 16%, song với dư địa hiện tại, cơ quan điều hành để ngỏ khả năng tín dụng có thể tăng cao hơn nếu doanh nghiệp hấp thụ vốn tốt và các gói hỗ trợ phát huy tác dụng.
Đáng chú ý, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, tiếp tục khẳng định, ngành Ngân hàng phấn đấu giảm thêm lãi suất cho vay, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Lãi suất cho vay tiếp tục có xu hướng giảm từ đầu năm đến nay. Đến tháng 7, lãi suất cho vay bình quân mới ở mức 6,23%/năm, giảm 0,7%/năm so với cuối năm 2024, qua đó góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, cá nhân phát triển sản xuất kinh doanh.
Ở góc nhìn chuyên gia, nhiều công ty chứng khoán và tổ chức phân tích dự báo tăng trưởng tín dụng năm nay có thể đạt từ 16 - 18%, thậm chí cao hơn trong trường hợp thị trường bất động sản, đầu tư công và tiêu dùng nội địa đồng loạt khởi sắc. Đây chính là động lực để ngân hàng mạnh dạn phân khúc thị trường, tung gói chuyên biệt nhằm thúc đẩy sức bật của doanh nghiệp.
Song, chuyên gia cũng cảnh báo, bài toán không nằm ở tổng lượng vốn mà là khả năng tiếp cận. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp khó khi thiếu tài sản bảo đảm, hồ sơ tài chính chưa chuẩn, dẫn đến khó tiếp cận gói tín dụng ưu đãi. Vì vậy, để chính sách thực sự đi vào đời sống, cần đơn giản hóa thủ tục, phát triển thêm sản phẩm tín dụng phù hợp với doanh nghiệp quy mô nhỏ.
Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng tín dụng cao tiềm ẩn rủi ro về nợ xấu và áp lực lên tỷ giá, lãi suất. Ngân hàng Nhà nước lưu ý, chính sách hỗ trợ vốn cần song hành với giám sát chặt chẽ chất lượng tín dụng, bảo đảm dòng vốn chảy đúng địa chỉ và tránh tình trạng “dồn vốn” vào những lĩnh vực rủi ro cao.
Có thể thấy, việc thiết kế gói tín dụng theo ngành là bước đi mang tính chất tái cấu trúc, chuyển từ cung vốn đại trà sang cung vốn có mục tiêu. Sự “may đo” này giúp gắn kết nhu cầu vốn của từng lĩnh vực với định hướng phát triển bền vững, vừa hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi ngắn hạn vừa thúc đẩy chuyển đổi dài hạn. Trong bức tranh đó, vai trò điều tiết của Ngân hàng Nhà nước, cùng sự chủ động sáng tạo từ các ngân hàng thương mại, sẽ là chìa khóa để tín dụng không chỉ bứt tốc mà còn bền vững.
Dự báo, từ nay đến hết năm, nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh tăng mạnh, vì thế TS. Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đề nghị, nguồn vốn nên được khơi thông và thúc đẩy, khuyến khích chảy vào khu vực sản xuất, nơi tạo ra hàng hóa, dịch vụ cụ thể, nơi tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người lao động, nơi giúp giải quyết nhiều vấn đề về an sinh xã hội.