Tọa đàm 'Chiến thắng Tây Nguyên - Mở đầu cho toàn thắng': Vận dụng, phát huy những bài học quý trong tình hình mới
Tọa đàm 'Chiến thắng Tây Nguyên-Mở đầu cho toàn thắng' do Quân đoàn 34 và Báo Quân đội nhân dân phối hợp tổ chức ngày 26-2 nhận được nhiều tham luận sâu sắc.
Báo Quân đội nhân dân tiếp tục trích đăng một số tham luận tại tọa đàm nhằm làm rõ thêm những bài học quý trong Chiến dịch Tây Nguyên và sự vận dụng, phát huy những bài học kinh nghiệm đó trong tình hình mới.
Trung tướng VŨ CƯƠNG QUYẾT, Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng:
Chiến thắng mang tầm chiến lược
Chiến thắng Tây Nguyên là thắng lợi quan trọng mang tầm chiến lược, có ý nghĩa to lớn trong thời điểm quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Với thắng lợi này, ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, giải phóng địa bàn có ý nghĩa chiến lược, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch ở phía Bắc, cắt đôi và phá vỡ thế bố trí chiến lược của địch, làm cho quân địch phải co cụm và bị động đối phó trên các chiến trường; đẩy chúng đi từ những sai lầm về chiến thuật, chiến dịch đến sai lầm về chiến lược, tạo thế tan rã về chiến lược.
Thắng lợi đột biến của chiến dịch đã đẩy nhanh nhịp độ cho cuộc tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam. Đồng thời, Chiến thắng Tây Nguyên đã tác động mạnh mẽ đến tinh thần chiến đấu của địch trên chiến trường, khiến chúng rối loạn; cổ vũ, động viên mạnh mẽ tinh thần và khí thế chiến đấu, củng cố quyết tâm và lòng tin của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vào thắng lợi cuối cùng.
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên đã cho thấy, để đối phó với chiến tranh xâm lược của kẻ thù, trước hết phải dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, biết phát huy những thuận lợi của ta, đồng thời kịp thời phát hiện và triệt để khai thác những khó khăn, những chỗ yếu cốt tử của địch; xây dựng, bố trí các lực lượng trên từng địa bàn, từng khu vực có thể hỗ trợ, phối hợp tác chiến chặt chẽ với nhau; khi thực hành tác chiến phải nắm chắc mục tiêu, đối tượng tác chiến, thực hiện nghi binh, lừa địch, làm cho địch bị bất ngờ về cả hướng, mục tiêu, thời gian và phương pháp tác chiến.
Cuộc Cách mạng 4.0 tạo ra sự phát triển mạnh mẽ các loại vũ khí, trang bị, kỹ thuật công nghệ cao tác động đến sự thay đổi về mục đích chiến tranh, sự phát triển về hình thái và phương thức tiến hành chiến tranh, không gian, thời gian tác chiến, ranh giới tiến công với phòng ngự, chiến thuật với chiến dịch; tác động đến nghệ thuật tổ chức sử dụng lực lượng, sử dụng vũ khí, trang bị, nhất là các loại vũ khí sử dụng nguyên lý vật lý mới, các phương tiện không người lái, robot chiến đấu ứng dụng trí tuệ nhân tạo...; đồng thời tác động mạnh mẽ đến phương thức chỉ đạo, điều hành, bảo đảm tác chiến cũng như trong công tác đào tạo và huấn luyện... Xác định chiến trường miền Trung-Tây Nguyên là chiến trường có giá trị chiến lược trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai, chúng ta cần phải xây dựng thế trận, bố trí lực lượng và chuẩn bị phương án giữ vững địa bàn hết sức quan trọng này nhằm bảo đảm thế liên hoàn cho các chiến trường (hướng chiến lược) của cả nước.
Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN VĂN THANH, Phó hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 1:
Chọn địa bàn trong Chiến dịch Tây Nguyên
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên là sự kết tinh của nhiều yếu tố, trong đó chọn địa bàn là yếu tố có ý nghĩa quyết định.
Thực tế cho thấy, Tây Nguyên là địa bàn chiến lược vô cùng quan trọng, cả ta và địch đều muốn nắm giữ. Địa bàn Tây Nguyên (Quân khu 2) nằm giữa Quân khu 1 và Quân khu 3 của địch, được Mỹ, ngụy tổ chức phòng ngự chiến lược vững chắc, có chiều sâu, nhằm ngăn chặn ta tiến công từ hướng Tây và Tây Bắc, bảo vệ cho các tỉnh miền Trung và miền Đông Nam Bộ. Để mất địa bàn Tây Nguyên và toàn bộ Quân khu 2, thế phòng ngự chiến lược của địch sẽ bị chia cắt, Quân khu 1 của địch bị cô lập, Quân khu 3 trực tiếp bị uy hiếp.
Về ta, nếu chiếm được Tây Nguyên sẽ khống chế toàn bộ chiến trường Nam Đông Dương, làm chủ được một vùng rộng lớn, tạo thế đứng chân vững chắc để phát triển tiến công xuống Sài Gòn-Gia Định và các tỉnh ven biển miền Trung. Tây Nguyên chủ yếu là rừng già, ta có điều kiện giữ được bí mật, thuận lợi cho đánh tiêu diệt lớn sinh lực địch, tiện triển khai binh khí kỹ thuật bảo đảm tác chiến hiệp đồng binh chủng. Từ phân tích thế bố trí lực lượng địch, địa hình và thế trận ta tạo lập cho thấy, lựa chọn địa bàn Tây Nguyên làm hướng mở màn đòn chiến lược then chốt cho toàn bộ chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 là quyết định sáng suốt, thể hiện tầm nhìn chiến lược và nhãn quan sắc bén của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh.
Hiện nay, đối tượng tác chiến có sự phát triển cả về tổ chức biên chế, vũ khí trang bị, phương pháp và thủ đoạn tác chiến. Quá trình phòng ngự, địch sẽ tổ chức sử dụng linh hoạt các thành phần lực lượng, phương tiện, quy mô khác nhau với nhiều thủ đoạn, phương pháp tác chiến, làm cho tình huống diễn biến nhanh, tính biến động cao và nhiều yếu tố bất ngờ. Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai (nếu xảy ra), chọn địa bàn tác chiến có vị trí, ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định đến kết quả của chiến dịch. Nếu có địa bàn thuận lợi, ta nhanh chóng hoàn chỉnh thế trận chiến dịch tiến công, kịp thời đối phó với các thủ đoạn và phương pháp tác chiến của địch. Để chọn địa bàn mở chiến dịch tiến công ngay từ thời bình trên các hướng trọng điểm của các quân khu, ở địa hình đã lựa chọn, chú trọng các khu vực địa hình hỗn hợp và địa hình đồng bằng, xây dựng phương án đánh trận then chốt, trận then chốt mở đầu.

Tại cuộc tọa đàm, Báo Quân đội nhân dân và Quỹ Thiện Tâm, Tập đoàn Vingroup trao kinh phí hỗ trợ Quân đoàn 34 xây dựng 5 căn nhà tặng quân nhân có hoàn cảnh khó khăn. Ảnh: TRỌNG HẢI
PGS, TS NGUYỄN DANH TIÊN, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh:
Đánh giá đúng tình hình địch - ta ở chiến trường miền Nam
Tình hình chiến trường miền Nam năm 1974 có nhiều diễn biến mới, so sánh lực lượng về mọi mặt giữa ta và địch trên chiến trường nghiêng hẳn về phía ta. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương trên cơ sở nắm bắt và đánh giá chính xác tình hình địch-ta đã họp nhiều hội nghị, đề ra những quyết sách mang tầm chiến lược cho giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong đó, chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975-1976 cùng đánh giá thế và lực mới của cách mạng đã xuất hiện khi ta giành quyền chủ động tiến công địch trên khắp các chiến trường. Ta củng cố và hoàn chỉnh thế chiến lược liên hoàn từ Bắc vào Nam, từ vùng rừng núi Trị-Thiên đến Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, ta đã xây dựng và tăng cường các binh đoàn chủ lực cơ động ở vùng rừng núi, tập trung được nguồn dự trữ chiến lược trên những địa bàn quan trọng; cải thiện được tình hình nông thôn đồng bằng; phát động được phong trào đấu tranh chính trị dưới khẩu hiệu hòa bình, độc lập, hòa hợp dân tộc. Đồng thời ta tiếp tục tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Về phía địch, thế của chúng ngày càng xấu, lực của chúng ngày càng suy, biểu hiện ở chỗ: Quân ngụy ở thế phòng ngự, bị động và bảo an, dân vệ bị tan rã từng mảng; hỏa lực, cơ động và trình độ hiệp đồng của quân chủ lực ngụy giảm sút nghiêm trọng; tinh thần quân ngụy đang xuống dốc, kế hoạch bình định đang phá sản; nội bộ ngụy rối loạn... Đó chính là tiền đề trực tiếp dẫn tới thắng lợi của Đại thắng mùa xuân năm 1975, mở đầu bằng Chiến dịch Tây Nguyên.
Đại tá HỒ SỸ CHIẾN, Chính ủy Sư đoàn 10, Quân đoàn 34:
Sư đoàn 10 và trận then chốt thứ hai trong Chiến dịch Tây Nguyên
Để thực hiện quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975, Bộ Chính trị quyết định chọn Tây Nguyên làm hướng chiến trường chính. Thực hiện phương án của Quân ủy Trung ương và Bộ tư lệnh Chiến dịch, Sư đoàn 10 tham gia Chiến dịch Tây Nguyên với hai nhiệm vụ chính:
Một là, nhanh chóng đánh dứt điểm quận lỵ Đức Lập và truy quét địch từ Đức Lập đến ngã ba Đắk Song trong thời gian 1-2 ngày. Đánh xong Đức Lập khẩn trương cơ động lực lượng về bắc Buôn Ma Thuột sẵn sàng tham gia trận then chốt, đánh dứt điểm Buôn Ma Thuột nếu địch ngoan cố co cụm chống cự khi đơn vị bạn chưa giải quyết được. Đồng thời sẵn sàng cơ động đánh địch phản kích từ hướng đông và đông bắc tới, phát triển đánh các chi khu, quận lỵ, vùng phụ cận phía đông. Nếu Sư đoàn 320 gặp khó khăn thì tăng cường lực lượng phối thuộc tiêu diệt địch ở Cheo Reo.
Hai là, tổ chức một sở chỉ huy nhẹ của Sư đoàn chỉ huy Trung đoàn 24 và Trung đoàn 95B tác chiến trên hướng Đông Bắc và hướng Tây Buôn Ma Thuột. Sau chiến thắng của trận đánh then chốt đầu tiên tại Buôn Ma Thuột, nhận định địch sẽ phản kích tái chiếm Buôn Ma Thuột, Sư đoàn nhanh chóng bố trí lực lượng sẵn sàng ngăn chặn và đánh bại địch phản kích trong trận then chốt thứ 2.
Nhận rõ đây là thời cơ lớn, Bộ tư lệnh Chiến dịch quyết định sử dụng Sư đoàn 10 tiêu diệt gọn Sư đoàn 23 ngụy phản kích bằng một số trận đánh trên Đường 21. Sư đoàn 10 với những đòn đánh oanh liệt đã đập tan cuộc phản kích tái chiếm Buôn Ma Thuột, xóa sổ Sư đoàn 23 ngụy, thực hiện thắng lợi trận then chốt thứ hai của chiến dịch, góp phần quan trọng thúc đẩy chiến dịch phát triển.
Chiến thắng Buôn Ma Thuột với trận then chốt thứ nhất khẳng định sự trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật chỉ huy chiến dịch và trình độ tổ chức thực hành tiến công trong hành tiến tiêu diệt lực lượng lớn quân địch phản kích, đổ bộ đường không. Thắng lợi của trận then chốt thứ hai thể hiện rõ vai trò của Sư đoàn với những bài học kinh nghiệm có giá trị sâu sắc về nghệ thuật quân sự và trong tiến hành hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị để giành thắng lợi.
Đại tá BÙI THẾ DŨNG, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 316, Quân khu 2:
Sư đoàn 316 và mũi thọc sâu vào sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy
Trong Chiến dịch Tây Nguyên, Sư đoàn 316 là đơn vị tham gia đánh trận mở màn, là lực lượng đột kích chủ yếu vào thị xã Buôn Ma Thuột, đảm nhiệm 3 hướng, mà trọng điểm là sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy. Hướng Tây Bắc do Trung đoàn 148 đảm nhiệm, có xe tăng và pháo binh chi viện, mục tiêu tấn công ban đầu đánh vào hậu cứ thiết giáp, sau đó đánh thẳng qua tiểu khu Đắc Lắc vào sư đoàn bộ Sư đoàn 23 ngụy. Hướng Tây Nam, Trung đoàn 174 được xe tăng, pháo binh chi viện đánh vào thị xã, mục tiêu đầu tiên là đánh chiếm Chư Duê, mở đường cho pháo binh và xe tăng vào chiếm lĩnh trận địa chi viện cho đặc công. Hướng Nam, Trung đoàn 149 có sự chi viện của pháo binh nhằm hướng thị xã tiến công, đánh vào sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy và tiểu khu Đắc Lắc.
Yêu cầu bí mật của chiến dịch rất cao, mọi hành động của các đơn vị trong thời gian chuẩn bị và chiếm lĩnh trận địa phải thực hiện theo những quy định nghiêm ngặt. Trong khi từ vị trí tập kết đến thị xã Buôn Ma Thuột đường rất xa, để tiếp cận, các đơn vị đều phải qua một chặng đường hành quân dài. Do đó, riêng việc tiến vào trận địa theo đúng thời gian quy định đã hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi mỗi đơn vị phải có tinh thần trách nhiệm cao, trình độ tổ chức vững vàng, chấp hành kỷ luật hết sức chặt chẽ mới hoàn thành được nhiệm vụ.
1 giờ 30 phút ngày 10-3-1975, đặc công ta bắt đầu nổ súng mở màn cuộc tiến công vào Buôn Ma Thuột. Ngay sau đó, các cụm hỏa lực chiến dịch bắt đầu trút đạn vào các mục tiêu trong thị xã. Đến hết ngày 10-3, các hướng đánh vào Buôn Ma Thuột đều giành thắng lợi, ta đã chiếm được nhiều vị trí, còn khu sân bay Hòa Bình, sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy ta chưa tiến công được. Tuy nhiên, từ ngày 11 đến 21-3, các đơn vị thuộc Sư đoàn 316 đã phối hợp cùng các lực lượng lần lượt đánh chiếm hết các mục tiêu, trong đó có sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy và sở chỉ huy Trung đoàn 53, căn cứ mạnh nhất còn lại của địch ở Buôn Ma Thuột và sân bay Hòa Bình, cùng các căn cứ thiết giáp, pháo binh, các mục tiêu còn lại ở trung tâm thị xã và các vị trí ngoại vi. Đến ngày 21-3, toàn bộ lực lượng địch đều bị tiêu diệt, thị xã Buôn Ma Thuột hoàn toàn giải phóng.
Đại tá, TS NGUYỄN ĐỨC TUỆ, Trưởng phòng Khoa học quân sự, Học viện Lục quân:
Nghệ thuật “chia cắt, vây giữ” trong Chiến dịch Tây Nguyên
Tây Nguyên có vị trí địa chiến lược quan trọng, nhưng điểm yếu cốt tử là nhiều núi cao hiểm trở, giao thông kém phát triển, địch cơ động chủ yếu dựa vào các trục đường chính (14, 19, 21, 7...). Khi các trục đường bị cắt và “khóa chặt, vây hãm” thì Tây Nguyên bị cô lập, tách rời khỏi vùng đồng bằng Nam Trung Bộ và cả chiến trường miền Nam, địch chỉ còn đường không để chi viện, ứng cứu.
Do đó, khi xây dựng thế trận chiến dịch, ta chọn hướng tiến công chiến lược vào Tây Nguyên là đã chọn đúng điểm nhạy cảm, đánh vỡ đôi thế trận, "bẻ gãy xương sống" của địch. Để “bẻ gãy xương sống” của địch, phải tạo lập thế trận chia cắt, vây giữ chắc. Đây là vấn đề then chốt, nét độc đáo nhất của việc xây dựng thế trận, tạo nên nghệ thuật “chia cắt, vây giữ”. Ý định tác chiến chiến dịch là chia cắt giữa các khu vực phòng ngự với nhau trên chiến trường Tây Nguyên, cụ thể là chia cắt Nam và Bắc Tây Nguyên.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình địch, ta và địa hình khu vực tác chiến, chiến dịch quyết định sử dụng sức mạnh hiệp đồng binh chủng, với nghệ thuật “chia cắt, vây giữ” địch; táo bạo, bất ngờ tiến công trên nhiều hướng mũi, đánh thẳng vào các mục tiêu trọng yếu bên trong thị xã Buôn Ma Thuột, nhanh chóng làm chủ địa bàn trong thời gian ngắn nhất. Đây là nét đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật “chia cắt, vây giữ” bằng cách đánh táo bạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn, bởi địch ở Buôn Ma Thuột tuy còn đông nhưng không phải là lực lượng chiến đấu chủ yếu; các căn cứ trong thị xã tuy kiên cố nhưng thiếu liên hoàn, bố trí cách xa nhau, khả năng hỗ trợ, chi viện cho nhau hạn chế. Đồng thời, do chủ quan nên địch đã sai lầm cho rằng, ta chưa có khả năng đánh vào một thị xã lớn như Buôn Ma Thuột trong năm 1975.
Chiến dịch Tây Nguyên giành thắng lợi bằng nghệ thuật tạo thế, nghi binh, chia cắt, vây giữ địch. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoàn cảnh và điều kiện đã khác nhiều so với cuộc kháng chiến trước đây, ta đã có thế và lực mạnh hơn... Vì vậy, cần tiếp tục quán triệt và cụ thể hóa những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, nhằm giải quyết các vấn đề về chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật đang đặt ra cả trước mắt và lâu dài.
Đại tá NGUYỄN VĂN HIỀN, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Pháo binh 40, Quân đoàn 34:
Pháo binh chi viện hỏa lực đánh các mục tiêu then chốt
Trong Chiến dịch Tây Nguyên, cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn Pháo binh 40 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tham gia chi viện hỏa lực đánh chiếm các mục tiêu then chốt.
Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn đã nắm vững đường lối chiến lược và thời cơ tiến công, phối hợp chặt chẽ với đơn vị bạn, tổ chức chi viện hỏa lực nhịp nhàng, hiệu quả. Quá trình chiến đấu có quyết tâm cao, mưu trí, dũng cảm, biết tập trung lực lượng dành ưu thế hơn địch; đồng thời vận dụng linh hoạt nghệ thuật quân sự, nhất là nghệ thuật nghi binh lừa địch, biết kết hợp chặt chẽ giữa đánh gần và đánh xa, giữa bắn ngắm trực tiếp với bắn ngắm gián tiếp, giữa bắn tập trung, bắn phá hoại với bắn chế áp, bắn kiềm chế để bộ binh phát triển chiến đấu. Bên cạnh đó, Lữ đoàn có một “điểm tựa” vững chắc từ hậu phương, không chỉ là sự ủng hộ trực tiếp của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên mà còn có cả hậu phương chiến lược miền Bắc.
Phát huy truyền thống của Bộ đội Pháo binh “Chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng” và những kinh nghiệm chiến đấu trong Chiến dịch Tây Nguyên, cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn Pháo binh 40 đang nỗ lực nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu của đơn vị. Gắn xây dựng Lữ đoàn với xây dựng địa bàn đóng quân vững mạnh thông qua các phong trào, mô hình “Dân vận khéo”, như: “Hũ gạo nghĩa tình”, “Tấm áo tình thương”; chung tay cùng địa phương xây dựng nông thôn mới, xóa nhà tạm, nhà dột nát, được nhân dân tin yêu.
Trung tá TỐNG XUÂN HƯNG, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 95, Sư đoàn 325, Quân đoàn 12:
Khẳng định trình độ tác chiến hiệp đồng
Chiến thắng Buôn Ma Thuột khẳng định trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng quân-binh chủng khôn khéo, linh hoạt, quyết đoán và tổ chức chặt chẽ, mưu trí, sáng tạo, đạt tới trình độ cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Đây chính là bài học kinh nghiệm quý báu cần được vận dụng trong công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu hiện nay. Muốn vậy, cần phải xây dựng tinh thần chiến đấu vững vàng, rèn luyện khả năng phối hợp đồng bộ giữa các binh chủng và phát triển khả năng lãnh đạo, chỉ huy của đội ngũ cán bộ là những yếu tố quyết định để Quân đội ta luôn sẵn sàng đối phó hiệu quả với mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong tình hình hiện nay, đối tượng tác chiến đã có điều chỉnh, vũ khí công nghệ cao tạo nên sự thay đổi lớn trên chiến trường. Nghiên cứu vận dụng nghệ thuật quân sự, đáp ứng với điều kiện tác chiến trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi tư duy mới về tác chiến hiện đại. Nhưng bài học về nghệ thuật tác chiến của trận đánh Buôn Ma Thuột vẫn còn nguyên giá trị, cần vận dụng sáng tạo, phù hợp với tình hình mới.
Tham gia Chiến dịch Tây Nguyên, Trung đoàn 95 đã thể hiện rõ ràng bản lĩnh chiến đấu kiên cường, chiến thuật linh hoạt và sự đoàn kết, phối hợp chặt chẽ giữa các binh chủng, góp phần quan trọng vào chiến thắng quyết định này. Ngày nay, để góp phần nâng cao chất lượng huấn luyện, duy trì trạng thái sẵn sàng chiến đấu trong mọi điều kiện, không để bị động trước các tình huống chiến tranh bất ngờ, Trung đoàn luôn chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, từ chiến thuật đến tâm lý, từ trang bị đến khả năng phản ứng nhanh trước mọi tình huống chiến tranh. Coi trọng huấn luyện các tình huống mô phỏng thực tế, trong đó huấn luyện với các tình huống thay đổi liên tục để giúp bộ đội nắm bắt nhanh chóng mọi tình huống và thích ứng một cách linh hoạt.