Tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam từ tác phẩm 'Đâu có giặc là ta cứ đi'
Ca khúc 'Hành quân xa' của nhạc sĩ Đỗ Nhuận, từng vang dội khắp chiến trường, là khúc quân hành hào hùng của các thế hệ người lính Việt Nam. Nhưng ít ai biết rằng, cảm hứng viết nên ca khúc nổi tiếng ấy lại bắt nguồn từ chính câu nói của Anh hùng Liệt sĩ Lê Văn Dỵ: 'Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi'. Câu nói giản dị mà hào sảng ấy đã vượt qua thời gian, trở thành biểu tượng của lòng quả cảm, của tinh thần 'quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh', hun đúc ý chí chiến đấu cho bao thế hệ người lính Việt Nam.

Tiểu đoàn trưởng Lê Văn Dỵ (đứng giữa) gắn Huy hiệu "Tây Bắc quyết thắng" cho các chiến sĩ trong đơn vị, thuộc Trung đoàn 174, Sư đoàn 316. Ảnh: Đ.V.H
Từ di vật thời chiến đến tác phẩm lịch sử
Sinh năm 1926 tại xã Mê Linh, Hà Nội, ông Lê Văn Dỵ tham gia quân ngũ từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Từ một chiến sĩ bình thường, ông đã trở thành cán bộ chỉ huy dày dạn trận mạc, từng trải qua hàng trăm trận đánh lớn nhỏ trong hai cuộc kháng chiến.
Với tinh thần “đâu cần là đến, đâu khó có bộ đội”, ông cùng đơn vị tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, là một trong 33 cán bộ, chiến sĩ lập thành tích đặc biệt xuất sắc tại mặt trận lịch sử này.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ông Lê Văn Dỵ lại cùng đơn vị lên đường làm nghĩa vụ quốc tế tại Lào, với cương vị Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4, Lữ đoàn 316. Chính trong quãng thời gian nghỉ ngắn năm 1964, ông bắt đầu viết cuốn hồi ký đầu tay, ghi lại những “mẩu chuyện sinh hoạt và chiến đấu trong đời bộ đội”.
Tác phẩm được viết bằng giọng kể mộc mạc, chân thực, nhưng giàu cảm xúc và tính nhân văn. Trong đó, hình ảnh người lính hiện lên vừa kiên cường, dũng cảm nơi chiến trường, vừa ấm áp, nghĩa tình trong đời thường, chan chứa tình đồng chí, đồng đội và tình quân dân keo sơn.

Bộ đội của Đại đội 811 do Anh hùng lê Văn Dỵ chỉ huy là đơn vị chủ công tấn công tiêu diệt cứ điểm C1 trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: Triệu Đại
Ngày 17/3/1965, ông hoàn thành phần hồi ký về giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Khi bắt đầu viết những dòng đầu tiên của chương “Trận đầu trên đất bạn”, ông nhận được lệnh cùng đơn vị vượt Trường Sơn sang Lào tiếp tục chiến đấu. Những trang bản thảo còn dang dở đành gửi lại ở hậu cứ Mộc Châu, giữa lúc cuộc chiến ngày càng khốc liệt.
Gần 5 năm sau, ngày 13/3/1970, ông Lê Văn Dỵ anh dũng hy sinh tại chiến trường Lào, khi đang đảm nhiệm trọng trách Phó Ban Tác chiến Sư đoàn 316, giữa lúc Chiến dịch Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng bước vào giai đoạn ác liệt nhất.
Bản thảo hồi ký dở dang mang tên “Đường tôi đi” đã trở thành di vật thiêng liêng, được đồng đội gửi về cho gia đình sau khi đơn vị làm thủ tục báo tử.
Đầu những năm 2000, khi các đồng đội cũ của Sư đoàn 316 đề xuất làm hồ sơ truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (LLVTND) cho liệt sĩ Lê Văn Dỵ, ông Lê Văn Hòa - con trai trưởng của ông đã phô tô bản thảo hồi ký để gửi cho các cựu chiến binh. Một bản trong số đó đến tay Thiếu tướng Lê Mã Lương, khi ấy là Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, người đã chủ động liên hệ gia đình và đề nghị hiến tặng kỷ vật quý này cho Bảo tàng.
Năm 2008, ngay sau khi Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng LLVTND cho liệt sĩ Lê Văn Dỵ, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam phối hợp với Ban Liên lạc Cựu chiến binh Sư đoàn 316 xuất bản cuốn hồi ký mang tên “Đâu có giặc là ta cứ đi”, đúng dịp kỷ niệm 55 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954 – 2009).
Năm 2014, nhân kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, cuốn hồi ký được bổ sung tư liệu, chỉnh lý và tái bản dày 232 trang, ghi tên tác giả Anh hùng LLVTND - Liệt sĩ Lê Văn Dỵ cùng Ban Liên lạc Cựu chiến binh Sư đoàn 316.
Dịp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, tác phẩm tiếp tục được chỉnh sửa, tái bản với 324 trang, ghi rõ tác giả duy nhất là Anh hùng LLVTND Lê Văn Dỵ. Cũng trong dịp này, tỉnh Điện Biên đã vinh danh ông bằng việc đặt tên một tuyến phố mang tên Lê Văn Dỵ như một cách tri ân người anh hùng đã cống hiến trọn đời cho Tổ quốc.

CLB "Trái tim người lính" tặng di ảnh chân dung Anh hùng LLVTND - Liệt sĩ Lê Văn Dỵ cho gia đình. Ảnh: Đ.V.H

Thân nhân gia đình tác giả Lê Văn Dỵ tặng sách tượng trưng cho Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. Ảnh: Đ.V.H
Người phụ nữ thầm lặng phía sau người anh hùng
Trong dịp kỷ niệm 95 năm Ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 – 20/10/2025), tác phẩm “Đâu có giặc là ta cứ đi” của Anh hùng LLVTND - Liệt sĩ Lê Văn Dỵ được giới thiệu và trưng bày trang trọng tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam.
Tác phẩm không chỉ là một phần lịch sử, mà còn là thông điệp tri ân, tôn vinh vẻ đẹp, sự kiên cường và đức hy sinh của người phụ nữ Việt Nam trong suốt chiều dài đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Đằng sau hình tượng người chiến sĩ anh hùng là bà Hoàng Thị Hừu (1940 – 2020) người vợ tào khang, biểu tượng của lòng thủy chung son sắt. Ông bà kết hôn năm 1955, và năm 1970, khi ông Lê Văn Dỵ hy sinh, bà Hoàng Thị Hừu lúc đó mới 30 tuổi.
Suốt nửa thế kỷ sau đó, bà đã ở vậy thay chồng nuôi dạy cho 5 người con (2 trai, 3 gái) trưởng thành. Có 2 con đi bộ đội (trong đó một người là Thương binh trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam năm 1978) và người con trai cả Lê Văn Hòa gia nhập lực lượng Công an Nhân dân 20 năm, sau đó chuyển ngành sang Ban Nội chính Trung ương (hàm Vụ trưởng) trước khi nghỉ hưu. Ông Lê Văn Hòa, sau này công tác tại Ban Nội chính Trung ương luôn tự hào nhắc về mẹ mình như “người giữ lửa” cho gia đình và ký ức về cha.

Anh hùng LLVTND - liệt sĩ Lê Văn Dỵ và bà Hoàng Thị Hừu, chụp năm 1957. Ảnh: Đ.V.H

Bà Hoàng Thị Hừu - người vợ tào khang của Anh hùng LLVTND - Liệt sĩ Lê Văn Dỵ chụp cùng 5 người con, ảnh chụp năm 1979. Ảnh: Đ.V.H
Giữa những năm tháng hậu chiến, hình ảnh người mẹ Việt Nam âm thầm, bền bỉ, vừa làm cha, vừa làm mẹ, vừa gìn giữ niềm tin vào lý tưởng cách mạng, đã trở thành biểu tượng đẹp của thế hệ phụ nữ Việt Nam trong và sau chiến tranh. Tác phẩm “Đâu có giặc là ta cứ đi” không chỉ là cuốn hồi ký của một người lính, mà còn là khúc tráng ca về tình yêu Tổ quốc, tình đồng đội và tình vợ chồng son sắt.
Qua đó, vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam càng được tôn vinh, những người lặng lẽ ở hậu phương, làm nên sức mạnh tinh thần cho tiền tuyến, để “người ra đi giữ trọn niềm tin, người ở lại giữ trọn nghĩa tình”.