TP.HCM định hướng trở thành trung tâm dịch vụ cao cấp của khu vực
TP.HCM đặt mục tiêu nâng tỷ trọng dịch vụ lên 70-80% GRDP, với định hướng phát triển các ngành dịch vụ cao cấp, hiện đại, giá trị gia tăng cao, gắn liên kết vùng và quốc tế.
Ngày 12/9, UBND TP.HCM tổ chức tọa đàm “TP.HCM - Trung tâm dịch vụ lớn của cả nước và khu vực với các ngành dịch vụ cao cấp, hiện đại, có giá trị gia tăng cao: Định hướng và giải pháp đột phá”.
Phát biểu tại tọa đàm, ông Nguyễn Văn Dũng, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM cho biết, nhiều năm qua, khu vực dịch vụ luôn giữ vai trò động lực chính của tăng trưởng kinh tế, chiếm 60-65% GRDP. Sau khi sáp nhập với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu, tỷ trọng này chiếm 51% GRDP của thành phố.
Trong giai đoạn tới, TP.HCM đặt mục tiêu nâng tỷ trọng dịch vụ lên 70-80% GRDP. Tuy nhiên, cơ cấu hiện nay vẫn thiên về các lĩnh vực truyền thống, trong khi dịch vụ cao cấp, hiện đại, có giá trị gia tăng cao chưa phát triển tương xứng với tiềm lực. So với các trung tâm dịch vụ toàn cầu như Singapore, Hong Kong hay Thượng Hải, tỷ trọng dịch vụ của thành phố vẫn còn thấp, thiếu cạnh tranh trong bối cảnh ASEAN đang bứt phá ở kinh tế số, tài chính quốc tế, logistics toàn cầu và đổi mới sáng tạo.

Ông Nguyễn Văn Dũng, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM chia sẻ tại tọa đàm.
Theo ông Dũng, sự mở rộng không gian hành chính đã tạo tiền đề hình thành một “siêu đô thị quốc tế”, trong đó TP.HCM giữ vai trò trung tâm tài chính - thương mại - giáo dục - y tế; Bình Dương đóng góp nền tảng công nghiệp và logistics; còn Bà Rịa - Vũng Tàu đảm nhận cảng nước sâu, dầu khí và du lịch.
Định hướng phát triển dịch vụ hậu sáp nhập sẽ dựa trên ba trụ cột: tăng cường liên kết vùng, hợp tác quốc tế và xây dựng thương hiệu dịch vụ. Cụ thể, phát triển dịch vụ không thể tách rời liên kết vùng kinh tế và kết nối toàn cầu. Để phát triển toàn diện chuỗi cung ứng của vùng, với vị thế là đô thị trung tâm, trung tâm tài chính, dịch vụ cần đóng vai trò dẫn dắt vùng trong việc thiết lập liên kết chuỗi giá trị với các tỉnh lân cận trong vùng Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
“Đây là lợi thế cộng hưởng quan trọng, nhưng chỉ thực sự phát huy nếu thành phố tiến hành tái cấu trúc mạnh mẽ, tập trung ở các ngành dịch vụ chất lượng cao”, ông nhấn mạnh.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, TP.HCM đã và đang tập trung chỉ đạo các nhiệm vụ then chốt. Thứ nhất là xây dựng và triển khai Đề án “Xây dựng Thành phố trở thành trung tâm dịch vụ lớn của cả nước và khu vực với các ngành dịch vụ cao cấp, hiện đại, có giá trị gia tăng cao”; phát triển TP.HCM trở thành Trung tâm tài chính quốc tế, từng bước hội nhập các thị trường vốn, thị trường bảo hiểm, fintech, ngân hàng số.
Thứ hai là định hướng phát triển dịch vụ logistics thành ngành kinh tế mũi nhọn, gắn với quy hoạch Cảng biển Cái Mép - Thị Vải, cảng trung chuyển quốc tế tại Cần Giờ. Đồng thời, gắn với hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông, cảng biển, kho vận, chuyển phát nhanh.
Thứ ba là thúc đẩy giáo dục quốc tế, dịch vụ y tế cao cấp, phục vụ không chỉ cho người dân trong nước mà còn hướng đến khách hàng quốc tế; phát triển du lịch chất lượng cao trở thành thương hiệu dịch vụ mang tầm khu vực. Song song đó là đổi mới cơ chế thu hút đầu tư FDI vào các lĩnh vực dịch vụ công nghệ cao, công nghệ số, chuyển đổi số, hỗ trợ mạnh mẽ khởi nghiệp sáng tạo.
Ngoài ra, TP.HCM sẽ xây dựng các khu chức năng dịch vụ chuyên ngành, như Trung tâm triển lãm, hội nghị quốc tế, khu tài chính quốc tế, trung tâm logistics khu vực…

Nhiều chuyên gia hiến kế để đưa TP.HCM trở thành trung tâm dịch vụ cao cấp của khu vực.
Ở góc độ chuyên gia, ông Lương Quang Thi, Trưởng Ban Chính sách Pháp chế, Hiệp hội Logistics TP.HCM, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Giải pháp Thương mại ABA cho rằng, để trở thành trung tâm logistics hàng đầu khu vực, TP.HCM cần học hỏi kinh nghiệm quốc tế. Ông dẫn ví dụ từ Singapore, nơi không chỉ đầu tư công nghệ tại một điểm mà còn kết nối toàn bộ hệ thống sản xuất và dịch vụ để hình thành luồng dữ liệu liền mạch. “Đây là điều mà TP.HCM nên xem xét thực hiện”, ông nói.
Bên cạnh đó, ông Thi đề xuất thành phố quy hoạch lại hệ thống logistics để kết nối cảng với các khu sản xuất và vùng lân cận, tương tự mô hình Thượng Hải (Trung Quốc) đã thành công khi thiết lập mạng lưới từ cảng đến các điểm sản xuất, đi sâu vào nội địa.
“Trong đó, phát triển chuỗi lạnh sẽ là lợi thế quan trọng, bởi TP.HCM nằm liền kề trung tâm sản xuất Đồng bằng sông Cửu Long. Giải pháp này không chỉ nâng cao chất lượng dịch vụ logistics, gia tăng giá trị nông sản và xuất nhập khẩu, mà còn bảo đảm an toàn thực phẩm”, đại diện Hiệp hội Logistics TP.HCM nhấn mạnh.
Các chuyên gia cũng khuyến nghị thành phố nghiên cứu chuyển đổi đất dọc sông Đồng Nai và sông Sài Gòn thành khu hậu cần sau cảng. Việc này vừa thu hút lượng hàng hóa từ cảng biển, vừa giảm áp lực cho hệ thống đường bộ. Những vị trí tiềm năng như Củ Chi, Dầu Tiếng (Bình Dương cũ) có thể tiếp nhận sà lan lên tới 128 TEUs, mở ra cơ hội phát triển các khu hậu cần quy mô lớn.