TP.HCM tiên phong cùng cả nước trong kỷ nguyên mới
Nhiệm kỳ 2025-2030, Đảng bộ TP.HCM sẽ huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để TP.HCM tiên phong cùng cả nước trong kỷ nguyên mới.
Kiến tạo nền tảng cho giai đoạn phát triển mới
Trong nhiệm kỳ qua, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra nhanh, tác động đại dịch Covid-19 gây hậu quả nặng nề đến tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.
Cùng với những khó khăn, hạn chế về nguồn lực, không gian phát triển, nhiều vướng mắc, tồn đọng kéo dài và đội ngũ cán bộ chủ chốt thường xuyên biến động.
Trong bối cảnh đó, với truyền thống đoàn kết, năng động, sáng tạo, Đảng bộ TP.HCM đã lãnh đạo, phát huy tối đa vai trò tham gia điều hành của chính quyền, cùng với sự đồng lòng, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, Đảng bộ, chính quyền TP.HCM đã vượt qua khó khăn, thách thức, tập trung thực hiện nhiều nhiệm vụ chính trị đạt kết quả tốt, kiến tạo nền tảng cơ bản cho giai đoạn phát triển mới.
Phần lớn các chỉ tiêu kinh tế - xã hội nhiệm kỳ 2020 - 2025 hoàn thành. Tổng giá trị GRDP năm 2025 ước tính 3,03 triệu tỷ đồng, tăng hơn 1,5 lần so với năm 2020, chiếm 23,5% GDP cả nước.
GRDP bình quân đầu người ước đạt 220 triệu đồng, gấp 1,7 lần cả nước. Thu ngân sách nhà nước dự kiến đạt 737.000 tỷ đồng, chiếm 36,7% tổng thu ngân sách quốc gia.

Đại hội đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đặc biệt, TP.HCM đã chủ động tổng kết các nghị quyết của Trung ương, kịp thời đề xuất ban hành và triển khai thực hiện Nghị quyết số 31-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 98/2023/QH15 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM.
Đề xuất Trung ương cho chủ trương triển khai Đề án phát triển Trung tâm tài chính quốc tế, hệ thống đường sắt đô thị, Cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ, khu thương mại tự do (FTZ) gắn với cảng biển tại khu vực Cái Mép Hạ. Thành phố tiếp tục là nơi thí điểm các cơ chế, chính sách mới trước khi nhân rộng ra cả nước.
Bên cạnh đó, TP.HCM phát huy vai trò đầu tàu trong liên kết vùng và cả nước, khai thác lợi thế địa kinh tế để dẫn dắt phát triển hạ tầng, nguồn nhân lực, hạ tầng số; lan tỏa, thúc đẩy vùng Đông Nam Bộ và kinh tế trọng điểm phía Nam; phối hợp xây dựng cơ chế hợp tác, chia sẻ nguồn lực và giải quyết thách thức chung về an ninh, biến đổi khí hậu, tài nguyên và quy hoạch.
TP.HCM cũng đạt nhiều thành tựu trên các lĩnh vực như phát triển văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, xây dựng chính quyền...
Tiên phong trong kỷ nguyên mới
Sau sáp nhập, tổng diện tích của TP.HCM đạt 6.773 km2, tương đương 2,04% diện tích cả nước, tạo điều kiện thuận lợi cho quy hoạch vùng đô thị tích hợp.
Dân số mới ước tính 13,608 triệu người, chiếm 13,4% dân số cả nước (101,344 triệu người).
Trong đó, lực lượng lao động đang làm việc đạt khoảng 7,281 triệu người, tương ứng 14% tổng số lao động toàn quốc (51,806 triệu người). Đây là nguồn nhân lực quy mô lớn, góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp - dịch vụ vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Về kinh tế, GRDP hợp nhất của TP.HCM ước tính 3,03 triệu tỷ đồng (tương đương 123 tỷ USD), chiếm 23,5% GDP cả nước. Nếu loại trừ dầu khí tại Bà Rịa - Vũng Tàu, con số này vẫn đạt trên 2,821 triệu tỷ đồng, chiếm 22,3% toàn quốc.
Điều này cho thấy sức mạnh kinh tế của TP.HCM là kết quả tổng hợp và cộng hưởng từ ba vùng kinh tế năng động. GRDP bình quân đầu người của TP.HCM ước đạt năm 2025 là 220 triệu đồng (khoảng 8.944 USD)(3), gấp 1,7 lần cả nước.

Sau sáp nhập, tổng diện tích của TP.HCM đạt 6.773 km2, tương đương 2,04% diện tích cả nước.
Về thu ngân sách nhà nước, TP.HCM dự kiến đạt 737.000 tỷ đồng, chiếm 36,7% tổng thu ngân sách quốc gia, trong khi chi ngân sách dự kiến đạt 248.000 tỷ đồng, chiếm 10,9% tổng chi.
Hoạt động thương mại đối ngoại cũng rất sôi động, với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 181,5 tỷ USD, chiếm 23,1% tổng kim ngạch cả nước; trong đó, xuất khẩu là 89,5 tỷ USD và nhập khẩu 92,0 tỷ USD.
Tổng vốn đầu tư xã hội của TP.HCM ước tính 640.700 tỷ đồng, chiếm 17,4% tổng vốn đầu tư xã hội cả nước. Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ ước tính 1.679 nghìn tỷ đồng, tương đương 26% cả nước, phản ánh sức mua lớn và hệ thống phân phối phát triển mạnh.
Như vậy, TP.HCM hợp nhất với tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là bước ngoặt chưa từng có trong lịch sử phát triển đô thị Việt Nam.
Từ đó, mở ra cơ hội mở rộng thị trường, tăng sức hút đầu tư, kết nối hạ tầng, kết nối chuỗi sản xuất và nâng tầm vị thế quốc tế, tiếp cận nguồn tài chính, công nghệ tiên tiến.
Đây là sự cấu hình lại toàn diện không gian phát triển, nơi ba cực kinh tế năng động bậc nhất cả nước hội tụ, với tầm nhìn mới là “siêu đô thị quốc tế” của Đông Nam Á, top 100 thành phố đáng sống nhất thế giới, nhằm thực hiện sứ mệnh tiên phong, dẫn dắt và lan tỏa phát triển cho cả nước.

TP.HCM huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để tiên phong cùng cả nước trong kỷ nguyên mới.
Với thế mạnh là những địa phương phát triển hàng đầu, ba địa phương hợp nhất đã tạo nên một thực thể hành chính - kinh tế đặc biệt, bổ sung cho nhau khá hoàn chỉnh, tái cấu trúc không gian phát triển theo tư duy “một trung tâm, ba vùng, một đặc khu”, tối ưu hóa chia sẻ lợi thế so sánh của từng khu vực hội tụ các điều kiện để trở thành siêu đô thị đa trung tâm phát triển theo bốn hành lang, với năm trụ cột (trung tâm công nghiệp, logistics; trung tâm tài chính quốc tế; du lịch và công nghiệp văn hóa; trung tâm giáo dục - y tế - khoa học công nghệ).
Tuy nhiên, TP.HCM vẫn đối mặt với nhiều khó khăn do kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ; thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao; vấn đề ô nhiễm môi trường còn nhiều thách thức; chênh lệch giàu nghèo còn lớn; thách thức từ cạnh tranh thu hút đầu tư, thích ứng biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh mạng, giữ gìn bản sắc văn hóa - xã hội...
Trong nhiệm kỳ mới, Đảng bộ TP.HCM quyết tâm xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và kinh tế tư nhân; tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hội nhập quốc tế; huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để TP.HCM tiên phong cùng cả nước trong kỷ nguyên mới.
30 chỉ tiêu giai đoạn 2025 - 2030:
4.1. Về kinh tế
(1) Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân 10 - 11%/năm. Đến năm 2030, GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 14.000 - 15.000 USD.
(2) Tổng vốn đầu tư xã hội bình quân 5 năm 35 - 40% GRDP.
(3) Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GRDP đạt 60%.
(4) Kinh tế số chiếm từ 30 - 40%/GRDP.
(5) Tổng chi xã hội cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2 - 3% GRDP, bố trí ít nhất 4 - 5% tổng chi ngân sách hằng năm cho khoa học, công nghệ, chuyển đổi số.
(6) Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân khoảng 8,0%/năm.
4.2. Về xã hội
(7) Chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức trên 0,8.
(8) Đến năm 2030, đạt 35,1 giường bệnh/10.000 dân, 21 bác sĩ/10.000 dân và 35 điều dưỡng/10.000 dân.
(9) Từ năm 2026, người dân được khám sức khỏe định kỳ hoặc khám sàng lọc miễn phí ít nhất mỗi năm 1 lần và được lập sổ sức khỏe điện tử để quản lý sức khỏe theo vòng đời.
(10) Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế ≥ 95% vào năm 2026; bao phủ toàn dân vào 2030. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội đạt 62% lực lượng lao động trong độ tuổi.
(11) Đến năm 2030, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia: Mầm non đạt tỷ lệ 40%; Tiểu học đạt tỷ lệ 45%; Trung học cơ sở đạt tỷ lệ 50%; Trung học phổ thông đạt tỷ lệ 38,5%.
(12) Đến năm 2030, bảo đảm tối thiểu 300 phòng học/10.000 dân trong độ tuổi đi học (từ 3 đến 18 tuổi).
(13) Tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng, đại học đạt ít nhất 24% trở lên.
(14) Tỷ lệ học sinh/sinh viên ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ đạt
ít nhất 35% trở lên.
(15) Phấn đấu đến năm 2030, không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo Thành phố.
4.3. Về đô thị và môi trường
(16) Tỷ lệ đất giao thông trên đất xây dựng đô thị đạt 16 - 26%.
(17) Tỷ lệ thu gom nước thải đô thị đến năm 2030 đạt khoảng 80%. Tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý đạt quy chuẩn đến năm 2030 đạt 40 - 45%. Tỷ lệ rác thải sinh hoạt được tái chế, xử lý bằng công nghệ mới trên 90%.
(18) Tỷ lệ che phủ rừng duy trì ổn định 11%.
(19) Đến cuối năm 2030, số căn hộ nhà ở xã hội tăng thêm 199.400 căn.
(20) Đến cuối năm 2030, phấn đấu hoàn thành công tác di dời 50% căn nhà trên và ven kênh, rạch trên địa bàn Thành phố (20.000 căn).
4.4. Về quốc phòng, an ninh
(21) Đảm bảo tuyển quân hằng năm đạt 100%, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh toàn diện, “mẫu mực tiêu biểu”, đáp ứng yêu cầu quốc phòng, an ninh.
(22) Giảm tối thiểu 5% mỗi năm số vụ phạm tội về trật tự xã hội và tai nạn giao thông.
(23) Hằng năm phấn đấu kéo giảm 5% tổng số vụ cháy cấp III trở lên.
(24) Phấn đấu đạt, vượt chỉ tiêu 50% xã, phường, đặc khu không ma túy; 100% xã, phường, đặc khu trên địa bàn Thành phố không phức tạp về ma túy; tiến tới kiểm soát và đẩy lùi tội phạm và tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống xã hội.
4.5. Về xây dựng Đảng
(25) Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt chất lượng hoàn thành tốt nhiệm vụ năm sau cao hơn năm trước, giảm tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng yếu kém xuống dưới 0,5%/năm.
(26) 100% người đứng đầu cấp ủy thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương.
(27) Hằng năm có trên 90% tổ chức cơ sở đảng, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tỷ lệ kết nạp đảng viên mới đạt từ 3 - 4% tổng số đảng viên cuối kỳ năm trước.
(28) Thực hiện kiểm tra, giám sát đối với 100% tổ chức đảng, đảng viên theo chương trình và kế hoạch; kiểm tra, giám sát 100% việc thực hiện các kết luận sau kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng, đảng viên.
(29) 100% tổ chức đảng xây dựng thực hiện chuyển đổi số có hiệu quả.
(30) Hằng năm, các cấp ủy đảng trực thuộc có ít nhất 01 mô hình “Dân vận khéo”; trong nhiệm kỳ có ít nhất 50 mô hình “Dân vận khéo” được nhân rộng.
Nguồn Công Lý: https://congly.vn/tp-hcm-tien-phong-cung-ca-nuoc-trong-ky-nguyen-moi-496151.html