Trà Đông - Nơi lửa và đất kết tinh thành tinh hoa đồng Việt
Nổi tiếng với những pho tượng Phật uy nghiêm, chuông đồng ngân vang và đồ thờ cúng chạm khắc kỳ công, Trà Đông không chỉ là làng nghề mà còn là một bảo tàng sống về lịch sử và văn hóa Việt Nam.

Hoàn thiện sản phẩm trống đồng ở gia đình anh Đặng Quốc Toàn (làng nghề đúc đồng Trà Đông). (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)
Hơn một thiên niên kỷ trôi qua, ngọn lửa lò đúc tại làng Trà Đông (xã Thiệu Trung, Thanh Hóa) vẫn không ngừng cháy, giữ gìn một nghề thủ công truyền thống tinh xảo, mà chỉ riêng nó đã đủ để định danh cho cả một vùng đất.
Nổi tiếng với những pho tượng Phật uy nghiêm, chuông đồng ngân vang và đồ thờ cúng chạm khắc kỳ công, Trà Đông không chỉ là làng nghề mà còn là một bảo tàng sống về lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Thiên niên sử vàng son của làng đồng cổ
Làng đúc đồng Trà Đông, thuộc xã Thiệu Trung, tỉnh Thanh Hóa, không chỉ là một làng nghề, mà còn là một trong những cái nôi của nghệ thuật đúc đồng Việt Nam.
Lịch sử của làng gắn liền với những câu chuyện huyền thoại, được cho là đã bắt đầu từ thời nhà Đinh hoặc Tiền Lê, với sự phát triển mạnh mẽ và rực rỡ dưới thời nhà Lý, Trần.
Trà Đông có nghề đúc đồng tồn tại hơn 1.000 năm, trở thành một trong những làng nghề đúc đồng lâu đời nhất và nổi tiếng bậc nhất cả nước.
Tương truyền, người khai sáng và truyền nghề đúc đồng cho dân làng là Nguyễn Minh Không (tức Lý Quốc Sư, vị thiền sư nổi tiếng thời nhà Lý) hoặc một vị tổ nghề là Khổng Minh Không có công lớn trong việc truyền bá kỹ thuật đúc đồng tinh xảo.
Từ đời này sang đời khác, bí quyết luyện kim, pha chế hợp kim, tạo khuôn, và chạm khắc đã được các nghệ nhân Trà Đông gìn giữ nghiêm ngặt, chỉ truyền lại cho con cháu trong làng.

Khách tham quan khu trưng bày sản phẩm tại làng nghề đúc đồng truyền thống Trà Đông. (Ảnh: Lê Đông/TTXVN)
Vào thời phong kiến, Trà Đông nổi danh là nơi sản xuất những vật phẩm quý giá cho triều đình, từ các pháp khí cho Phật giáo đến đồ dùng cho cung đình. Tên tuổi Trà Đông không chỉ dừng lại ở đồ gia dụng, mà còn gắn liền với các công trình văn hóa-tâm linh mang tầm vóc quốc gia.
Bí quyết nằm ở “hồn đất” và “sức lửa”
Điều làm nên sự khác biệt của sản phẩm Trà Đông chính là sự kết hợp hoàn hảo giữa kỹ thuật truyền thống tinh xảo và nguồn nguyên liệu đặc biệt.
Nghệ thuật đúc đồng Trà Đông chủ yếu sử dụng phương pháp đúc khuôn đất sét, một kỹ thuật đòi hỏi sự kiên nhẫn và kinh nghiệm gần như tuyệt đối.
Quy trình đúc đồng Trà Đông là một chuỗi công đoạn khắt khe, bao gồm:
Làm mẫu: Tạo mẫu bằng sáp hoặc vật liệu mềm, quyết định hình dáng và thần thái của sản phẩm.
Làm khuôn: Đây là bước bí truyền. Khuôn được làm từ hỗn hợp đất sét, tro trấu và một số phụ gia bí mật, sau đó nung trong lò than. Độ mịn, độ bền và khả năng chịu nhiệt của khuôn quyết định chất lượng bề mặt đồng khi đúc.
Nấu đồng: Đồng được nấu chảy ở nhiệt độ hàng ngàn độ C. Các nghệ nhân Trà Đông có bí quyết pha chế hợp kim đồng với các kim loại khác (như thiếc, kẽm, chì) theo tỷ lệ gia truyền, tạo ra màu sắc và độ bền đặc trưng, đồng thời giúp đồng lỏng chảy đều, lấp đầy mọi chi tiết nhỏ nhất của khuôn.
Rót đồng và làm nguội: Đây là khoảnh khắc quyết định, đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối về thời gian và nhiệt độ.
Hoàn thiện: Sau khi đúc, sản phẩm được phá khuôn, trải qua quá trình làm sạch, mài dũa, và đặc biệt là chạm khắc, đánh bóng. Chính những đường chạm khắc thủ công, tinh xảo, có hồn này đã tạo nên thương hiệu Trà Đông.
Sự tỉ mỉ và kinh nghiệm của người thợ còn thể hiện rõ trong việc tạo ra hợp kim đồng Trà Đông - màu đồng khi hoàn thiện thường có sắc thái nâu trầm, cổ kính, không quá bóng bẩy nhưng lại có độ bền vượt trội theo thời gian.
Dấu ấn Trà Đông trong các công trình lịch sử
Thương hiệu đúc đồng Trà Đông không chỉ là lời ca ngợi suông mà được chứng minh qua những công trình cụ thể, có ý nghĩa lịch sử và văn hóa lớn:
Tượng Phật A Di Đà tại chùa Thầy là một trong những tác phẩm tiêu biểu, thể hiện tài năng đúc tượng vượt trội của nghệ nhân Trà Đông.
Chuông đồng lớn tại các chùa chiền: Tiếng chuông đồng Trà Đông ngân vang, trầm ấm, có độ lan xa, được các chùa lớn tin dùng.
Bộ Đỉnh đồng, hạc thờ: Các bộ đồ thờ cúng Trà Đông luôn được săn đón vì sự tinh xảo trong hoa văn Tứ Linh, Bát Tiên, thể hiện sự trang nghiêm và nét văn hóa thờ cúng truyền thống.
Các tác phẩm phục chế: Trong công cuộc trùng tu, phục chế các di tích lịch sử, các nghệ nhân Trà Đông luôn là lựa chọn hàng đầu để tái tạo các hiện vật đồng cổ, đảm bảo tính nguyên bản và giá trị lịch sử.
Giữ lửa trong bối cảnh hiện đại
Ngày nay, làng nghề Trà Đông không chỉ đứng vững mà còn phát triển mạnh mẽ. Dù phải đối mặt với sự cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, các nghệ nhân nơi đây vẫn kiên trì giữ nguyên kỹ thuật đúc thủ công truyền thống.
Hiện tại, làng có hàng chục hộ gia đình tiếp tục theo nghề, không chỉ đúc đồ thờ cúng mà còn mở rộng sang các sản phẩm mỹ nghệ, quà lưu niệm, và đặc biệt là đúc tượng đồng chân dung theo yêu cầu.

Với kỹ thuật đúc thủ công, đặc biệt là cách làm khuôn bằng đất sét giã nhuyễn, làng nghề đúc đồng Trà Đông đã tạo ra những sản phẩm như trống, chiêng, đồ thờ, lư hương, tượng, tranh đồng. (Ảnh: Lê Đông/TTXVN)
Đặc biệt, với tình yêu và niềm đam mê, những người thợ đúc đồng làng Trà Đông đã mày mò, nghiên cứu, đúc thành công trống đồng bằng phương pháp thủ công truyền thống với nhiều kích cỡ khác nhau, được các nhà khoa học trong và ngoài nước đánh giá cao, từ chiếc trống đồng với phiên bản và hoa văn Ngọc Lũ năm 2000, chiếc trống đồng có kích thước lớn nhất Việt Nam với đường kính mặt trống 1,51m, cao 1,21m năm 2007 đến chiếc trống đồng phiên bản Ngọc Lũ được xem là lớn nhất thế giới nặng khoảng 8 tấn, cao 2m, đường kính mặt trống 2,7m năm 2013...
Vào năm 2010, tập thể nghệ nhân làng nghề đúc đồng Trà Đông đã tham gia đúc 100 chiếc trống đồng để dâng lên Đại lễ 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội.
Những sản phẩm của người thợ đúc đồng Trà Đông đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thêm phong phú, tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trải qua bao thăng trầm, biến cố của thời gian và lịch sử, nghề đúc đồng truyền thống làng Chè vẫn giữ được những nét độc đáo, đặc trưng mà không nơi nào sánh được.
Với những giá trị tiêu biểu đó, ngày 4/9/2018, Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch đã có quyết định số 3325, công bố danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trong đó, Nghề đúc đồng cổ truyền làng Chè (Trà Đông) xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nay xã Thiệu Trung, tỉnh Thanh Hóa, là 1 trong 8 di sản được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đợt này.
Nghề đúc đồng Trà Đông đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, khẳng định giá trị lịch sử và văn hóa của làng nghề. Việc công nhận này không chỉ là niềm tự hào mà còn là động lực để chính quyền địa phương và các nghệ nhân thúc đẩy công tác bảo tồn, đồng thời mở rộng mô hình du lịch làng nghề.
Du khách khi đến Trà Đông không chỉ mua được những sản phẩm đồng tinh xảo mà còn có cơ hội hiếm hoi để chứng kiến toàn bộ quy trình đúc đồng truyền thống - từ khâu chuẩn bị đất, tạo mẫu, đến việc rót đồng nóng chảy rực lửa.
Những người thợ đúc đồng Trà Đông đang làm một công việc thầm lặng nhưng vô cùng ý nghĩa: họ không chỉ tạo ra những vật phẩm bằng đồng, mà còn đang "đúc" nên di sản văn hóa, tinh thần và bản sắc của dân tộc Việt Nam, đảm bảo rằng ngọn lửa từ hơn nghìn năm trước vẫn sẽ tiếp tục cháy rực rỡ cho các thế hệ mai sau./.