Trung học nghề - bước đột phá trong phân luồng sau Trung học cơ sở
Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) năm 2024 lần đầu tiên xác lập Trung học nghề (THN) như một cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân, song song với Trung học phổ thông (THPT).

Ảnh minh họa: HNIVC
Trao đổi với PV Báo PNVN, PGS.TS Trần Thành Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, mô hình này không chỉ tạo bước đột phá trong phân luồng sau trung học cơ sở (THCS) mà còn mở ra con đường học tập - việc làm linh hoạt, góp phần giải bài toán thiếu hụt nhân lực kỹ thuật chất lượng cao.

PGS.TS Trần Thành Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội
Luật GDNN (sửa đổi) chính thức đưa THN vào hệ thống giáo dục quốc dân như một cấp học song song với THPT. Mục tiêu là thiết lập hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, liên thông, tạo cơ hội học tập suốt đời cho mọi người. Trường THN tích hợp giữa kiến thức cốt lõi văn hóa phổ thông và chuyên môn nghề nghiệp.
Nhờ đó, người học vừa hoàn thiện trình độ THPT, vừa hình thành năng lực nghề nghiệp rõ ràng và ứng dụng kỹ thuật hiện đại vào công việc thực tế. Mô hình này sẽ đẩy mạnh phân luồng sau THCS, giải quyết bài toán thiếu hụt nhân lực kỹ thuật chất lượng, đồng thời mở rộng hướng đi linh hoạt cho thanh thiếu niên phù hợp xu thế hội nhập quốc tế.
- Theo chuyên gia, quy định mới mở ra những ưu thế nào cho THN?
PGS.TS Trần Thành Nam: Theo quy định mới, chương trình THN có nhiều ưu thế. Thứ nhất là tích hợp văn hóa - nghề. Chương trình THN tích hợp hài hòa kiến thức văn hóa phổ thông với đào tạo nghề chuyên sâu. Học sinh học xen kẽ môn văn hóa và nghề từng học kỳ, giúp gắn kết thực tiễn, thay vì tách biệt như chương trình trung cấp trước đây.
Ưu thế thứ hai là liên thông học tập. Sau khi tốt nghiệp THN, học sinh có văn bằng THN được xem xét liên thông lên trung cấp, cao đẳng, đại học theo quy định của Bộ GD-ĐT. Như vậy, học sinh THN vừa có cơ hội nghề nghiệp sớm, vừa được mở rộng cơ hội học tập dài hạn.
Tiếp đó là hệ thống linh hoạt, chuẩn đầu ra rõ ràng. Luật mới yêu cầu ban hành chuẩn chương trình THN theo nhóm ngành, quy định rõ chuẩn đầu ra, khối lượng học tập và cấu trúc chương trình. Chương trình được thiết kế theo chuẩn năng lực (competency-based), đánh giá theo năng lực nghề nghiệp và kiến thức cần có. Cách tiếp cận này giúp minh bạch về yêu cầu đầu ra, khuyến khích trường nghề chủ động xây dựng môi trường đào tạo chất lượng.
Cuối cùng là gắn với thực tiễn nghề nghiệp. Chương trình THN đặc biệt chú trọng thực hành và sáng tạo. Học sinh rèn luyện know-how - kỹ năng thao tác nghề - song song với kiến thức nền tảng. Mục tiêu là người tốt nghiệp có khả năng làm việc độc lập, làm việc nhóm và ứng dụng công nghệ hiện đại vào công việc. Các hình thức đào tạo thường là gắn kết doanh nghiệp - trường học, nâng cao tỷ lệ thực hành trong giờ học nghề.

Dự kiến, hai phương án phân bổ các khối kiến thức theo từng năm học.
- Bên cạnh những ưu thế trên, quá trình triển khai đưa THN sẽ gặp phải thách thức nào?
PGS.TS Trần Thành Nam: Những khó khăn chính trong triển khai khi đưa THN thành hiện thực đang gặp các thách thức lớn.
Thách thức đầu tiên trong việc triển khai THN là thiếu chuẩn đầu ra rõ ràng. Mặc dù Luật quy định sẽ xây dựng chuẩn chương trình và chuẩn đầu ra cho từng ngành nghề, hiện các quy chuẩn cụ thể về năng lực, kỹ năng của học sinh THN vẫn đang hoàn thiện. Trong bối cảnh chuyển đổi số, nhiều ngành nghề mới ra đời, chuyên môn và kỹ năng của từng ngành nghề sẽ cần liên tục cập nhật. Việc này gây khó khăn cho các trường trong thiết kế chương trình và đánh giá chất lượng giảng dạy.
Bên cạnh đó thực tế thiếu đội ngũ giáo viên tích hợp cũng là một rào cản lớn. Giảng viên có thể dạy tích hợp đồng thời kiến thức văn hóa và nghề nghiệp còn hiếm. Giáo viên dạy nghề thường am hiểu kỹ thuật nhưng chưa nắm vững chương trình văn hóa THPT. Ngược lại, giáo viên văn hóa thường chưa có kỹ năng nghề. Chưa có lộ trình đào tạo và chính sách đãi ngộ phù hợp cho loại giáo viên này.
Đồng thời vấn đề về tâm lý xã hội, định kiến cũng gây ra những khó khăn. Bởi xã hội vẫn còn tâm lý e ngại với học nghề ở bậc trung học. Nhiều phụ huynh học sinh và học sinh THCS mặc định học nghề là "giải pháp cho kém học" và không thể học lên được, khiến kênh tuyển sinh gặp khó. Định kiến này hạn chế sự thu hút học sinh và gây mất cân bằng giữa giáo dục phổ thông và giáo dục nghề.
Cuối cùng là rào cản từ việc thiếu hành lang pháp lý chi tiết. Luật GDNN mới đã thiết lập khung pháp lý, nhưng nhiều quy định chi tiết (như quy chế tuyển sinh THN, cấp chứng chỉ nghề, kiểm định cơ sở THN, tỷ lệ điểm xét tốt nghiệp riêng...) vẫn đang chờ ban hành Nghị định hướng dẫn. Sự chậm trễ trong ban hành các văn bản dưới luật làm các bên liên quan chưa thể triển khai đồng bộ và hiệu quả.
- Chuyên gia đánh giá về thực trạng điều kiện triển khai THN hiện nay như thế nào?
PGS.TS Trần Thành Nam: Hiện nay, việc triển khai THN còn phụ thuộc lớn vào điều kiện của từng cơ sở GDNN.
Về cơ sở vật chất, thiết bị, nhiều trường nghề hiện tại (công lập và tư thục) chưa có đủ phòng thực hành, trang thiết bị kỹ thuật cần thiết. Theo dự thảo luật, chỉ những cơ sở đủ điều kiện (hạ tầng, thiết bị, chương trình, đội ngũ) mới nên được phép đào tạo THN. Trong thực tế, không ít trường còn thiếu máy móc hiện đại, phòng học chuyên môn đạt chuẩn và các xưởng thực hành hiện đại để đáp ứng chương trình tích hợp.
Về đội ngũ giảng viên, đa số trường nghề đều đang thiếu giáo viên chuyên môn giỏi về cả văn hóa THPT và nghề nghiệp. Để dạy chương trình tích hợp, cần có giáo viên tích hợp (được đào tạo hoặc bồi dưỡng liên thông cả hai kiến thức). Hiện tại, việc tuyển dụng và biên chế giáo viên dạy THPT tại các trường nghề chưa ổn định; trong khi đó Bộ GDĐT khẳng định nếu được giao biên chế ổn định thì các trường nghề hoàn toàn có khả năng dạy văn hóa đạt chất lượng tương đương trường phổ thông. Như vậy, tình trạng thiếu giáo viên tích hợp và chưa chủ động xây dựng đội ngũ là một rào cản lớn.
Về quản lý trường và học sinh vị thành niên, học sinh sau THCS khi vào học THN còn nhiều vấn đề về quản lý (kỷ luật, tư vấn nghề nghiệp, bảo vệ người chưa thành niên). Nhiều trường nghề hiện nay chưa có kinh nghiệm chăm sóc tâm lý học sinh tuổi vị thành niên và thiếu các chính sách hỗ trợ kịp thời. Cơ chế phối hợp giữa nhà trường và gia đình/phụ huynh về vấn đề học tập và an toàn cho học sinh còn hạn chế.

Sau lớp 9, trung học nghề là một trong những hướng đi mới cho học sinh. Ảnh: HNIVC
- Từ khó khăn, thực tế, chuyên gia có thể đưa ra những giải pháp cho công tác triển khai THN?
PGS.TS Trần Thành Nam: Để phát huy mô hình THN, cần các giải pháp mạnh mẽ ở nhiều bình diện.
Về chính sách: Sớm ban hành Nghị định chi tiết hướng dẫn Luật GDNN (sửa đổi) trong 6 tháng đầu 2025, quy định đầy đủ điều kiện tổ chức, tuyển sinh, chuẩn đầu ra, kiểm định chất lượng THN. Điều này tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các trường nghề chuẩn bị tuyển sinh và xây dựng chương trình.
Về quản lý - Tổ chức: Xây dựng mô hình quản trị riêng cho Trường THN, tương tự trường phổ thông, với cơ chế tự chủ về nhân sự, tài chính và chương trình. Bộ GDĐT nên phối hợp với các bộ ngành (LĐ-TB&XH, KHCN, Y tế, Quốc phòng…) để xây dựng khung chương trình nghề theo nhóm ngành nghề ưu tiên. Nhà nước khuyến khích các trường nghề công lập và tư thục liên kết với nhau thành mạng lưới (như mô hình đại học vùng) nhằm chia sẻ nguồn lực đào tạo chuyên ngành.
Phát triển nguồn nhân lực (giáo viên tích hợp): Xây dựng lộ trình đào tạo và đãi ngộ cho "giáo viên tích hợp" - những người có đủ năng lực giảng dạy liên môn văn hóa và nghề. Cần triển khai các khóa bồi dưỡng cấp chứng chỉ cho giáo viên gốc giảng văn hóa và giáo viên gốc dạy nghề để chuyển đổi. Song song đó, cần nâng cao chế độ đãi ngộ: áp dụng phụ cấp đặc thù, nâng lương và thăng hạng chức danh nghề nghiệp cao cho giáo viên dạy nghề (kể cả giảng viên đồng cơ hữu). Khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo và đề bạt nhân sự nghề nghiệp là giáo viên, đồng thời tạo quỹ, học bổng hỗ trợ giảng viên giỏi về cơ sở GDNN.
Truyền thông - Hướng nghiệp: Thay đổi cách gọi và nhận thức: cần truyền thông mạnh mẽ rằng "Học nghề là học đàng hoàng", đồng cấp với học phổ thông. Xây dựng chương trình hướng nghiệp ngay tại bậc THCS, giới thiệu cơ hội nghề nghiệp rõ ràng cho học sinh và phụ huynh. Tổ chức các kỳ thi kỹ năng quốc gia - quốc tế quy mô lớn và công khai, tạo uy tín cho Trường THN. Việc này góp phần nâng cao vị thế của giáo dục nghề, khuyến khích người học lựa chọn con đường THN. Thực tế cho thấy, nếu được tổ chức bài bản thì THN sẽ trở thành trụ cột mới của giáo dục quốc dân, hình thành nguồn nhân lực có kỹ năng và phát triển bền vững.
Có thể nói, mô hình Trường THN trong Luật GDNN sửa đổi 2024 có ý nghĩa chiến lược trong đổi mới giáo dục nghề nghiệp – phổ thông và nguồn nhân lực quốc gia. Để mô hình này thành công, cần triển khai đồng bộ chính sách và nguồn lực, tập trung vào những điểm nghẽn là cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên tích hợp. Nếu thực hiện đúng lộ trình (đến 2030 có khung chương trình chuẩn, và đánh giá chính thức) và đồng hành cùng các khuyến nghị trên, THN sẽ mở rộng cơ hội học tập, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Xin cảm ơn chuyên gia!
Từ năm 2026 đến 2030, chương trình THN sẽ được triển khai và tuyển sinh chính thức khóa đầu tiên trên phạm vi toàn quốc, tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đủ điều kiện.
Theo luật GDNN (sửa đổi), các cơ sở đào tạo, được thực hiện chương trình giáo dục trung học nghề gồm:
- Trường cao đẳng, trung cấp
- Trường trung học nghề được tổ chức dưới các tên gọi khác nhau phù hợp với lĩnh vực hoặc nhóm ngành, nghề đào tạo; thực hiện chương trình giáo dục trung học nghề, chương trình đào tạo trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề khác
- Cơ sở giáo dục đại học đang đào tạo ngành hoặc nhóm ngành đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật, thể thao ở trình độ đại học thực hiện chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, trung cấp, chương trình giáo dục trung học nghề cùng ngành hoặc nhóm ngành.












