Truyện ngắn Trần Chiến, phong cách giả cổ và nhân văn
Những năm gần đây, nhà văn Trần Chiến được trao một số giải thưởng cao trong các cuộc thi truyện ngắn và hai giải thưởng hàng năm của Hội Nhà văn Hà Nội. Có thể nói, trong dòng chảy văn xuôi Việt Nam đương đại, nhà văn Trần Chiến nổi lên như một cây bút có sở trường đặc biệt là viết truyện ngắn theo phong cách giả cổ.
Không tái hiện lịch sử theo lối chính sử, cũng không thuần túy sáng tác dã sử như nhiều tác giả khác, ông tạo dựng nên những câu chuyện mang dáng dấp giai thoại, có giọng điệu sử ký, thần phả, nhưng đồng thời thấm đẫm tinh thần phê phán và nhân văn hiện đại. Hai truyện ngắn "Thượng đẳng thần" (1999) và "Sư đồ" (2007) là minh chứng điển hình cho phong cách nghệ thuật ấy.
Qua những trang văn đầy màu sắc huyền thoại và mỉa mai, Trần Chiến đã gửi gắm thông điệp nhân sinh sâu sắc khi mượn chuyện người xưa để nói chuyện hôm nay, phản chiếu bi kịch của con người trong vòng xoáy quyền lực, đồng thời nhắc nhở về giá trị đích thực của nhân tính.
Phong cách nghệ thuật giả cổ độc đáo
Trước hết, điểm dễ nhận thấy trong các truyện mang bút pháp giả cổ của nhà văn Trần Chiến là ngôn ngữ, bối cảnh, chi tiết đều gợi nhớ một thời trung đại với sắc màu sử thi, trang trọng mà quen thuộc.
Trong truyện ngắn "Thượng đẳng thần", nhân vật Phạm Vĩnh Nhiên bước ra từ lò thi cử Nho học, đỗ thủ khoa, làm quan từ chức nhỏ đến thượng thư bộ Lễ, rồi được giao trọng trách biên soạn hệ thống thần tích quốc gia. Trong truyện ngắn "Sư đồ", nhân vật trung tâm là Kỳ Thọ Vương Trần Lãm, một thủ lĩnh khởi nghĩa chống giặc Lặc, được dân gian tôn vinh, dựng tượng thờ phụng. Các chi tiết như “thi Hội, thi Đình”, “trai tráng đắp đê trị thủy”, “tượng đá mọc lên giữa đầu chợ”, “văn bia ghi công đức”… vừa mang vẻ trang nghiêm, vừa tạo nên cảm giác như đang đọc một mẩu sử cũ.

Nhà văn Trần Chiến.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là Trần Chiến không nhằm tái hiện lịch sử nguyên xi, mà chủ ý giả cổ để hiện đại hóa, tức là lấy giọng văn cổ kính để phơi bày những nghịch lý muôn thuở. Ngòi bút ông thường châm biếm, mỉa mai, khắc họa những chi tiết phi lý như vị thủ khoa tài năng phải sửa công đức giả dối để hợp lòng triều đình (trong "Thượng đẳng thần"), hay pho tượng bất tử vẫn “ngứa ngáy, động lòng trước tiếng gà con” (trong "Sư đồ"). Chính sự kết hợp giữa trang trọng và hài hước, giữa sử thi và bi hài kịch đã làm nên phong cách độc đáo của Trần Chiến.
Với thể loại truyện ngắn, Trần Chiến khéo léo khai thác hai thủ pháp nổi bật là kết cấu đan xen và nhân cách hóa. Trong "Thượng đẳng thần", câu chuyện đi từ chặng đường quan lộ đầy triển vọng của Phạm Công đến bước ngoặt bi kịch, chỉ vì muốn có con nối dõi, ông buộc phải thỏa hiệp với ma lực, dựng kẻ gian trá thành Thượng đẳng thần. Kết cấu ba hồi từ lập thân đến tha hóa rồi suy sụp tạo thành một vòng bi kịch khép kín. Trong "Sư đồ", kết cấu lại đan xen giữa hiện tại (pho tượng bất tử đứng sừng sững trong mưa gió) với dòng hồi ức quá khứ (khởi nghĩa, phong vương, lời thề bất tử). Sự đối lập giữa tượng đài vĩnh hằng và tâm sự đời thường làm nổi bật mâu thuẫn khi bất tử không đồng nghĩa với hạnh phúc.
Nhân cách hóa cũng là thủ pháp đặc sắc trong nghệ thuật truyện ngắn của Trần Chiến. Tượng đá trong "Sư đồ" vẫn biết ngứa, biết động tâm, biết khóc, thậm chí muốn trở về tìm lại dấu vết gia đình. Việc “thần thánh hóa rồi lại nhân loại hóa” đã phá vỡ khoảng cách giữa biểu tượng và con người, giúp người đọc nhận ra đằng sau pho tượng uy nghi là một kiếp người khao khát yêu thương. Tương tự, trong "Thượng đẳng thần", hệ thống thần tích vốn là biểu tượng thiêng liêng của cộng đồng, nhưng lại bị con người thao túng, bị chính trị hóa, khiến việc sắc phong thánh thần trở thành trò mua bán danh vọng.
Thêm vào đó, giọng điệu truyện của Trần Chiến vừa trang nghiêm vừa châm biếm. Ông để thái sư mắng Phạm Công “không ai sáng láng như thầy, không ai thậm ngu như thầy”, hay để Trần Lãm trong pho tượng vẫn “bực bội vì ngứa ngáy”. Sự đan xen ấy tạo nên chất mỉa mai lịch sử, vừa làm bật tiếng cười, vừa khiến người đọc xót xa.
Điểm chung nổi bật ở cả hai truyện giả cổ nói trên là tư tưởng nhân văn và phê phán, mượn chuyện người xưa để nói chuyện hôm nay. Ở "Thượng đẳng thần", bi kịch của Phạm Công là bi kịch của người trí thức chính trực và tài năng nhưng bị quyền lực bức tử, buộc phải viết sai sự thật, biến gian tà thành thánh thần. Sự thật bị bóp méo, tín ngưỡng cộng đồng bị lợi dụng, và người dân thành kính thờ phụng trong vô thức. Thông điệp nhân văn ở đây là lời cảnh báo về sự tha hóa khi trí thức thỏa hiệp với quyền lực, cũng như sự nguy hiểm của việc niềm tin tập thể bị thao túng.
Ở "Sư đồ", bi kịch của Trần Lãm là bi kịch của người anh hùng, để trở thành “bất tử”, ông phải chối bỏ đời tư, tình yêu, con cái, để rồi cuối cùng chỉ còn là một pho tượng bị kẻ quyền biến (Trương Tộn, Ngọc Sum) điều khiển. Sự “bất tử” ấy thực chất là sự giam hãm, là cái giá phải trả cho việc hóa thân thành biểu tượng. Thông điệp nhân văn ở đây là khẳng định giá trị đời thường là hạnh phúc gia đình, tình yêu giản dị quan trọng hơn danh vọng hư danh; và rằng quyền lực có thể dựng nên tượng đài, nhưng không thể khỏa lấp nỗi đau mất mát của con người.
Như vậy, cả hai truyện đều cùng một tiếng nói khẳng định con người không nên để quyền lực và danh vọng làm mất đi nhân tính. Lịch sử và thần thoại có thể được ghi chép, được dựng lên, nhưng điều còn lại với nhân gian phải là tình thương và sự thật.
Nghệ thuật mượn chuyện xưa nói chuyện nay
Điều làm nên sức sống lâu bền của các truyện ngắn "Thượng đẳng thần" và "Sư đồ" là ở chỗ, tuy viết về “người xưa”, nhưng tác phẩm lại vang vọng những câu hỏi của hôm nay.
Trần Chiến không phán xét trực diện hiện thực, mà dùng hình thức giả cổ để gián tiếp phản chiếu. Chính sự vòng vo ấy tạo nên tính triết luận và sức ám ảnh. Người đọc vừa thưởng thức một câu chuyện mang hương vị huyền thoại, vừa phải giật mình khi nhận ra “chuyện xưa mà cũng là chuyện nay”. Đây chính là thông điệp nhân văn sâu xa: lịch sử không chỉ để ca ngợi, mà còn để nhắc nhở, cảnh tỉnh và soi rọi hiện tại.
"Thượng đẳng thần" và "Sư đồ" là hai truyện ngắn thể hiện phong cách giả cổ độc đáo và tư tưởng nhân văn sâu sắc của Trần Chiến. Bằng nghệ thuật dựng truyện giàu chất dã sử, giọng điệu trang nghiêm xen lẫn châm biếm, kết cấu đan xen quá khứ và hiện tại, nhà văn đã khắc họa những bi kịch của trí thức và anh hùng khi bị quyền lực thao túng. Thông điệp mà tác phẩm để lại là lời nhắc nhở muôn đời khi sự thật, tình thương và nhân tính mới là giá trị bất tử, còn danh vọng và quyền lực chỉ là phù du. Chính nhờ lối viết “mượn chuyện người xưa để nói chuyện nay”, Trần Chiến đã làm mới thể loại truyện ngắn, góp phần khẳng định khả năng của văn học trong việc đối thoại với lịch sử và đánh thức lương tri hôm nay.
Trong tự bạch về các truyện ngắn giả cổ, nhà văn Trần Chiến cho biết: “Đọc nhiều truyện, tích cổ của ta, tôi thường “ngứa ngáy”, những câu hỏi “tại sao?” xuất hiện, có khi nằm yên có khi gây bất ổn. Chẳng hạn Thúy Kiều sau 15 năm lưu lạc trở về, Thúy Vân đã là vợ Kim Trọng, bảo “giờ chả là lúc tác hợp lại thì là lúc nào?”. Thế thì sau đó “tình tay ba” ra sao?
Nàng Châu Long thay chồng “nuôi” bạn, đến khi Lưu Bình đỗ đạt rồi thì lại mở ra câu chuyện mới về thân phận nàng, bi kịch hay là đoàn viên tưng bừng chờ đón? Rồi Huyền Trân lấy vua Chiêm Thành đổi lấy hai châu Ô Rý cho Đại Việt, vua chết, bà trở về chốn cũ, trẻ vậy sao phải đi tu? Thị Mầu, Tiên Dung nữa…, toàn đàn bà con gái có một cuộc đời, những khao khát hạnh phúc hẳn hoi, hình như nhà Nho soạn tích chuyện không để ý đến sướng khổ của họ. Những “cắc cớ” ấy khiến tôi muốn viết tiếp đoạn đời “thực” của họ.
Chuyện thờ cúng của các cụ ta nhìn vào đại loại thấy không nhất quán, lắm khi lộn xộn. Thành hoàng làng, Tứ Bất tử, cạnh vị có công lại có vị tai quái, buồn cười, thậm chí “hạ đẳng”. Họ vẫn được sụp lạy, kêu xin, thì lòng tin của con dân thế nào? Nghĩ về điều này có thể dẫn tới nhiều điều oái oăm, như đời thực nhá nhem thì Thần lắm khiếm khuyết cũng nên, họ cũng phải được thờ chứ. Hoặc các đấng ấy “tác động” vào quan viên có quyền định đoạt Thành hoàng theo lệnh vua. Loạt truyện “Ban Thần”, “Dâm Thần”, “Thượng đẳng Thần”… ra đời từ mạch nghĩ này.
Có thể coi những “giả cổ” là loại truyện lấy xưa nói nay, hay “giải thiêng” như giờ gọi. Nhưng ý tưởng, kết cấu, đặt tình huống thế nào? Không thể kể theo cách hiện đại, dùng từ thông dụng, tiết tấu “nẩy” như bây giờ. Giọng rất quan trọng, là sự lịch lãm. Cảnh vật hiện lên, nhân vật đối thoại ra sao để tạo không khí văn chương mềm mại, cổ kính mà không bị rườm, cứng như nhà Nho xưa diễn đạt. Đây là lý do tôi thích “giả cổ” mà không viết được nhiều”.