TS Vũ Ngọc Hoàng: Quản lý KHCN cần chuyển từ kiểm soát sang trao quyền và hỗ trợ

Theo TS Vũ Ngọc Hoàng, chấp nhận rủi ro trong NCKH không phải buông lỏng quản lý mà là chuyển sang cách tiếp cận linh hoạt và có cơ chế kiểm soát thông minh.

Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới.

Một trong những nhiệm vụ, giải pháp được đặt ra trong Nghị quyết số 57-NQ/TW (Nghị quyết 57) về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế; xóa bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Trong đó, nhấn mạnh việc phải có cách tiếp cận mở, vận dụng sáng tạo, cho phép thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra. Chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Có cơ chế thí điểm để doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ mới có sự hỗ trợ và giám sát của Nhà nước; có chính sách miễn trừ trách nhiệm đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong trường hợp thử nghiệm công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới mà có thiệt hại về kinh tế do nguyên nhân khách quan. Hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo, ươm tạo công nghệ và chuyển đổi số.

Để có thêm góc nhìn về vấn đề này, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trò chuyện với Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng – Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.

 Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng – Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (Ảnh: Mộc Trà)

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng – Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (Ảnh: Mộc Trà)

Còn nhiều điểm nghẽn trong phát triển khoa học và công nghệ

Theo Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, trong thế giới hiện đại ngày nay, khoa học và công nghệ không còn là một yếu tố phụ trợ mà đã trở thành động lực chính và trực tiếp cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đảm bảo an ninh, chủ quyền của dân tộc.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi mà các quốc gia phát triển đang tăng tốc bằng đổi mới sáng tạo, câu hỏi đặt ra cho Việt Nam là làm sao để tạo ra những đột phá trong khoa học và công nghệ, tạo ra sản phẩm trí tuệ, công nghệ mang tầm vóc quốc tế, và làm sao để nhà khoa học Việt Nam dám nghĩ lớn, dám làm khác, dám chịu trách nhiệm và dám thất bại?

Trước hết, cần khẳng định rằng Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương đúng đắn, xuyên suốt trong việc phát triển khoa học và công nghệ, xem đây là quốc sách hàng đầu. Luật Khoa học và công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030..., đã xác định vai trò trung tâm của nhà khoa học và doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong tiến trình phát triển đất nước.

Tuy nhiên, trên thực tế, sự đóng góp của khoa học và công nghệ vào tăng trưởng GDP vẫn còn khiêm tốn. Sự chuyển dịch từ tư duy đến hành động, năng lực nghiên cứu, ứng dụng của nước ta còn hạn chế so với khu vực, đặc biệt là trong việc cụ thể hóa các cơ chế bảo đảm cho nhà khoa học và doanh nghiệp “dám làm”, “dám thất bại”.

Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam cũng nói đến một số điểm nghẽn khiến khoa học và công nghệ của nước ta vẫn chưa phát triển được như kỳ vọng.

 Nhà khoa học Việt Nam vẫn còn gặp nhiều rào cản trong nghiên cứu khoa học. Ảnh minh họa: VNUHCM-US

Nhà khoa học Việt Nam vẫn còn gặp nhiều rào cản trong nghiên cứu khoa học. Ảnh minh họa: VNUHCM-US

Thứ nhất là cơ chế tài chính rườm rà, thiếu linh hoạt: Việc xây dựng đề tài, nghiệm thu, giải ngân kinh phí nghiên cứu vẫn nặng về hành chính, kiểm tra đầu vào hơn là đánh giá kết quả đầu ra. Nhà khoa học phải dành thời gian “viết hồ sơ” nhiều hơn là “làm nghiên cứu”.

Cơ chế “xin - cho”, quy định tài chính cứng nhắc, quy trình kiểm định rườm rà… có thể khiến nhiều ý tưởng đột phá bị “chết yểu” ngay từ trong phòng thí nghiệm. Đã đến lúc cần thay đổi mô hình quản lý nhà nước về khoa học - công nghệ, theo hướng từ kiểm soát sang hướng dẫn và đồng hành. Từ đánh giá đầu vào sang đánh giá kết quả đầu ra và tác động xã hội. Từ quy trình cứng sang cơ chế linh hoạt - thí điểm - điều chỉnh theo thực tế.

Thứ hai, trong nghiên cứu khoa học và công nghệ, thất bại là điều không thể tránh khỏi. Nhưng ở nước ta, thất bại thường đồng nghĩa với việc bị kiểm điểm, bị đánh giá thấp và người phê duyệt ngại trách nhiệm khi rủi ro. Điều này khiến các nhà khoa học ngày càng thận trọng, chọn đề tài an toàn, ít tính đột phá. Vì vậy, nhiều đề tài nghiên cứu ít có giá trị khoa học mới được tạo ra, nhất là về khoa học xã hội.

Một trong những điểm nghẽn lớn hiện nay là thiếu cơ chế cho phép thí điểm công nghệ và mô hình mới. Ở các quốc gia phát triển, mô hình sandbox chính sách (hành lang thử nghiệm) đã được áp dụng hiệu quả, giúp Chính phủ hiểu rõ công nghệ, đồng thời bảo vệ quyền lợi xã hội cho các nhà khoa học, doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Thực tế, đổi mới sáng tạo, tự thân nó luôn đi kèm với yếu tố rủi ro. Ít có những sáng chế hay công nghệ nào ra đời mà không từng trải qua những lần thất bại, những thử nghiệm dở dang, thậm chí là những tổn thất kinh tế. Các quốc gia phát triển hiểu rất rõ điều này. Họ không chỉ chấp nhận rủi ro mà còn tạo ra hệ thống để khuyến khích mạo hiểm, từ đó thúc đẩy sáng tạo không giới hạn.

Có thể kể đến như ở Israel, chương trình Yozma được ví như hình mẫu đầu tư mạo hiểm nhà nước. Cụ thể, năm 1993, Israel triển khai chương trình Yozma, một sáng kiến đầu tư mạo hiểm do Chính phủ khởi xướng với mục tiêu thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp. Chính phủ đầu tư 100 triệu USD, trong đó 20 triệu USD vào quỹ Yozma và 80 triệu USD còn lại để cùng đầu tư với các quỹ tư nhân, tạo điều kiện cho các công ty công nghệ non trẻ tiếp cận vốn và hỗ trợ phát triển.

Chính sách cho phép các quỹ tư nhân mua lại phần vốn nhà nước sau 5 năm, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân và giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư. Chương trình Yozma đã góp phần biến Israel thành "quốc gia khởi nghiệp", với hơn 1.000 công ty công nghệ được thành lập và thu hút hàng tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài.

 Cần có thêm các quỹ đầu tư mạo hiểm để khuyến khích khoa học và công nghệ phát triển. Ảnh minh họa: UTE

Cần có thêm các quỹ đầu tư mạo hiểm để khuyến khích khoa học và công nghệ phát triển. Ảnh minh họa: UTE

Ở Singapore đã áp dụng mô hình "sandbox" trong lĩnh vực y tế, cho phép các công ty thử nghiệm công nghệ mới như nền tảng y tế từ xa và công cụ chẩn đoán AI trong môi trường được giám sát chặt chẽ. Điều này giúp các nhà phát triển điều chỉnh sản phẩm dựa trên phản hồi thực tế và hướng dẫn từ cơ quan quản lý, đồng thời đảm bảo an toàn cho người dùng trước khi triển khai rộng rãi.

Ở Mỹ, Chính phủ đã triển khai các chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư vào công nghệ sạch và trí tuệ nhân tạo (AI). Đạo luật Giảm Lạm phát (Inflation Reduction Act) cung cấp các ưu đãi thuế và hỗ trợ tài chính cho các dự án năng lượng tái tạo, trong khi Văn phòng Quản lý và Ngân sách (OMB) ban hành chính sách toàn chính phủ để quản lý rủi ro và khai thác lợi ích của AI, thúc đẩy đổi mới trong khu vực công.

Khi các quỹ đầu tư mạo hiểm nhà nước hợp tác với các nhà đầu tư tư nhân, hiệu quả đầu tư và đổi mới sáng tạo được cải thiện đáng kể. Sự kết hợp này giúp chia sẻ rủi ro, tận dụng chuyên môn và mạng lưới của khu vực tư nhân, đồng thời đảm bảo nguồn vốn cho các công ty khởi nghiệp có tiềm năng nhưng chưa được thị trường chú ý.

Ứng dụng vào nước ta, Việt Nam cần luật hóa cơ chế sandbox để cho phép doanh nghiệp thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ mới trong phạm vi kiểm soát. Nhà nước có thể giám sát, đánh giá rủi ro, từ đó điều chỉnh chính sách. Người dân và xã hội được tiếp cận công nghệ mới trong môi trường an toàn.

Thứ ba, vẫn còn thiếu cơ chế “bảo hiểm rủi ro” cho đổi mới sáng tạo: Ở các quốc gia như Mỹ, Israel, Hàn Quốc…, chính phủ chủ động tài trợ cho các dự án có mức độ rủi ro cao - những công trình có thể thất bại, nhưng nếu thành công sẽ tạo ra bước ngoặt. Việt Nam vẫn chưa mạnh dạn trong hướng đi này.

Hiện nay, các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam chủ yếu là của nước ngoài. Các nhà đầu tư trong nước vẫn còn dè dặt do thiếu thông tin, chưa có cơ chế hỗ trợ rủi ro, và văn hóa đầu tư an toàn chi phối. Trong khi đó, nhiều startup công nghệ phải ra nước ngoài để tìm được môi trường và vốn phù hợp hơn.

Ở Việt Nam, quan điểm “an toàn là trên hết” trong quản lý đôi khi trở thành lực cản vô hình đối với sự phát triển của khoa học và công nghệ. Các nhà khoa học, nhà khởi nghiệp công nghệ thường rơi vào trạng thái lưỡng lự, e dè vì thiếu “vùng an toàn pháp lý” để thử nghiệm ý tưởng. Trong khi đó, cơ quan quản lý lại lo ngại “trách nhiệm”, hoặc thiếu thông tin, kinh nghiệm, sự tâm huyết nên không dám chấp thuận các dự án mang tính đột phá vì sợ rủi ro.

 Có thể kết nối giữa nhà khoa học - nhà đầu tư - nhà quản lý bằng các trung tâm ươm tạo công nghệ. Ảnh minh họa: VNUHCM-US

Có thể kết nối giữa nhà khoa học - nhà đầu tư - nhà quản lý bằng các trung tâm ươm tạo công nghệ. Ảnh minh họa: VNUHCM-US

Cần một thể chế mở để khoa học, công nghệ cất cánh

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng cho rằng, tư duy về quản lý khoa học và công nghệ cần có bước chuyển mình mạnh mẽ từ “kiểm soát” sang “trao quyền và hỗ trợ”. Muốn có đột phá, phải chấp nhận rủi ro. Và để nhà khoa học dám bước ra khỏi vùng "an toàn" thì trước hết nhà nước cần kiến tạo môi trường sáng tạo.

Đầu tiên, cần sửa đổi các văn bản pháp luật theo hướng đơn giản hóa quy trình xét duyệt, cho phép thử nghiệm và có cơ chế đặc thù đối với nghiên cứu mạo hiểm, các quỹ đầu tư cho khoa học và công nghệ cần được vận hành linh hoạt như quỹ đầu tư mạo hiểm. Đồng thời, khuyến khích sự tranh luận học thuật cởi mở, xây dựng văn hóa “dám thử và sai”, thừa nhận thất bại là một phần của hành trình khám phá khoa học.

Cơ chế, chính sách không thể chỉ được xây dựng dựa trên những quy định cứng nhắc, mang tính phòng ngừa, mà cần hướng tới nguyên tắc “cho phép làm” thay vì “chỉ làm khi được phép”. Chẳng hạn, khi một nhà khoa học muốn ứng dụng công nghệ sinh học mới vào nông nghiệp, thay vì yêu cầu phải có đủ “thủ tục” mới được làm, thì cần cho phép họ triển khai thí điểm trong quy mô nhỏ, dưới sự giám sát. Nếu thành công, nhân rộng; nếu thất bại, rút kinh nghiệm.

Bên cạnh đó, cần có các chương trình tài trợ cấp nhà nước dành cho nghiên cứu mang tính “tiên phong”, nơi mà kết quả chưa thể dự đoán được. Thay vì chỉ cấp kinh phí dựa vào hồ sơ “đẹp”, hãy tài trợ cho ý tưởng “lớn” và “khác biệt”.

Đặc biệt, cần thí điểm quỹ đổi mới sáng tạo quốc gia với cơ chế vận hành như quỹ đầu tư mạo hiểm, có thể tài trợ cho những nhà khoa học dám đương đầu với rủi ro - tạo nên sự đột phá như các công nghệ AI, sinh học tổng hợp, vật liệu mới…

Đầu tư mạo hiểm là “máu” nuôi dưỡng các ý tưởng công nghệ từ lúc còn là phôi thai đến khi trở thành sản phẩm thực tiễn. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa có một hệ sinh thái đầu tư mạo hiểm đủ mạnh, đặc biệt là các quỹ đầu tư nội địa.

Do đó, nhà nước cần thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm với chức năng "tạo đòn bẩy" cho khu vực tư nhân đầu tư vào đổi mới sáng tạo. Tạo cơ chế ưu đãi thuế cho doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào khởi nghiệp công nghệ. Hỗ trợ giai đoạn đầu (pre-seed, seed funding) cho các nhóm nghiên cứu trong trường đại học, viện nghiên cứu, giúp họ thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ, đem lại lợi nhuận để tiếp tục nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.

 Theo Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng cơ chế tài chính cho khoa học cũng cần linh hoạt hơn để phù hợp với đặc thù nghiên cứu. Ảnh minh họa: UIT

Theo Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng cơ chế tài chính cho khoa học cũng cần linh hoạt hơn để phù hợp với đặc thù nghiên cứu. Ảnh minh họa: UIT

Bên cạnh đó, việc xây dựng các trung tâm ươm tạo công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tại các đô thị lớn, các khu công nghiệp và vùng nông thôn trọng điểm là rất cần thiết. Những trung tâm này không chỉ hỗ trợ kỹ thuật mà còn là nơi kết nối giữa nhà khoa học - nhà đầu tư - nhà quản lý.

Quan trọng hơn cả, nhà nước cần chia sẻ rủi ro cùng doanh nghiệp và nhà khoa học. Để làm được điều này cần đẩy mạnh cơ chế hợp tác công - tư: Nhà nước có thể cùng doanh nghiệp đồng tài trợ các dự án R&D. Trong đó, nếu dự án thất bại vì nguyên nhân khách quan, rủi ro được chia sẻ theo tỷ lệ vốn góp. Đồng thời có cơ chế miễn giảm trách nhiệm khi thất bại một cách hợp lý.

Khi một công nghệ mới hoặc mô hình kinh doanh mới được triển khai thử nghiệm và không đạt kỳ vọng, dẫn đến thiệt hại kinh tế, thì cần phân biệt rõ giữa rủi ro khách quan và vi phạm chủ quan. Nếu thất bại là do đặc tính chưa hoàn thiện của công nghệ, hay do điều kiện thị trường chưa phù hợp, thì không thể quy trách nhiệm hình sự hay hành chính cho cá nhân, tổ chức thử nghiệm.

Do đó, cần có chính sách miễn trừ trách nhiệm trong phạm vi thử nghiệm có kiểm soát. Đây là yếu tố then chốt để nhà đầu tư, doanh nghiệp và nhà khoa học dám dấn thân vào đổi mới sáng tạo.

Một thách thức lớn khác khi đầu tư vào nghiên cứu khoa học là độ trễ. Nhiều đề tài phải mất tới 5 - 10 năm mới có thể đưa vào ứng dụng, đặc biệt trong những lĩnh vực công nghệ cao. Điều này đòi hỏi nhà nước và xã hội phải có tầm nhìn dài hạn, không thể đòi hỏi kết quả tức thì. Đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cho tương lai, và tương lai thì không thể “hạch toán” theo năm tài chính. Nếu đánh giá thành công - thất bại theo nhiệm kỳ hoặc năm tài chính là bất hợp lý và gây áp lực không cần thiết cho nhà khoa học.

Cơ chế tài chính cho khoa học cũng cần linh hoạt hơn để phù hợp với đặc thù nghiên cứu. Cần đổi mới cách nhìn, không cắt ngân sách vì kết quả chưa rõ sau 1-2 năm. Cho phép chuyển nguồn, kéo dài thời gian, điều chỉnh nội dung nghiên cứu theo thực tiễn. Đặc biệt, cần gắn kết giữa đề tài - doanh nghiệp - thị trường, để tăng tính ứng dụng và hiệu quả đầu tư.

Một xã hội muốn phát triển bền vững phải biết trao niềm tin cho giới khoa học. Niềm tin đó thể hiện ở: Sự tôn trọng đối với những kết quả nghiên cứu, dù thành công hay thất bại; Sự ghi nhận đối với những đóng góp trí tuệ, dù chưa thể thương mại hóa ngay; Sự đồng hành từ phía nhà nước trong từng giai đoạn thử nghiệm, triển khai và ứng dụng.

Nhà khoa học cần một không gian tự do trong nghiên cứu, được phép sai, được phép thử, được hỗ trợ khi gặp rào cản thể chế. Một quốc gia muốn có đột phá khoa học công nghệ không thể dựa vào kiểm soát chặt chẽ hay xét nét hành chính, mà phải dựa vào cơ chế tạo động lực và niềm tin.

 Để khoa học và công nghệ “cất cánh” Nhà nước cần chia sẻ rủi ro cùng doanh nghiệp và nhà khoa học. Ảnh minh họa: HUIT

Để khoa học và công nghệ “cất cánh” Nhà nước cần chia sẻ rủi ro cùng doanh nghiệp và nhà khoa học. Ảnh minh họa: HUIT

Cần kết nối tam giác nhà nước - doanh nghiệp - nhà khoa học

Theo Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, nhà khoa học không thể sáng tạo nếu bị bó buộc bởi hành chính cứng nhắc, thiếu sự tin tưởng và luôn bị giám sát như… người đang làm sai. Muốn đột phá trong phát triển khoa học và công nghệ, cần có hệ sinh thái khuyến khích mạo hiểm, sáng tạo, hợp tác thuận lợi hơn.

Để làm được điều này, Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng nhấn mạnh 5 yếu tố chính.

Thứ nhất, tự chủ học thuật cần đi đôi với tự chủ tài chính. Các viện nghiên cứu, trường đại học cần được trao quyền tự chủ thực chất: được lựa chọn đề tài, quyết định ngân sách, tuyển chọn nhân sự theo tiêu chí khoa học chứ không chỉ dựa vào các thủ tục hành chính. Có như vậy, các tổ chức khoa học và công nghệ mới đủ năng lực “chọn người tài, đặt đúng việc”.

Thứ hai, cần tôn vinh giá trị học thuật và đề cao nhà khoa học. Hệ thống đánh giá cần tập trung vào chất lượng đầu ra, tác động khoa học và ứng dụng thực tế, thay vì chỉ là số lượng bài báo hay hội đồng xét duyệt hành chính.

Thứ ba, chính sách đãi ngộ cho nhà khoa học cần có đột phá: không chỉ là lương mà còn là cơ hội tham gia vào các dự án tầm cỡ quốc gia, các chương trình trọng điểm khoa học và công nghệ.

Thứ tư, gắn đào tạo đại học với nghiên cứu khoa học. Đó là yêu cầu khách quan. Đại học ngoài việc tiếp tục hoàn thiện nhân cách, chuẩn bị nghề nghiệp, còn có chức năng sản xuất ra tri thức cho xã hội. Trong xã hội, lực lượng nghiên cứu khoa học nhiều nhất nằm tại các cơ sở giáo dục đại học. Thông qua nghiên cứu khoa học mà đào tạo và trưởng thành là cách đào tạo thực chất và chắc chắn. Khi người học tiếp thu tri thức thông qua công việc tham gia nghiên cứu là cách tiếp thu sâu nhất.

Để gắn công tác đào tạo với nghiên cứu khoa học cần lưu ý việc giúp cho người học về phương pháp nghiên cứu, biết cách tự tìm kiếm và tổng hợp kiến thức, cách tiếp cận vấn đề, biết phản biện, luôn tự phản biện, phương pháp tư duy logic biện chứng, biết cách làm việc nhóm, biết chấp nhận các khác biệt, và người thầy tổ chức cho các em tham gia nghiên cứu, hướng dẫn các em tự tổ chức nghiên cứu, thầy trò cùng nhau đi tìm chân lý.

 Gắn đào tạo đại học với nghiên cứu khoa học là yêu cầu tất yếu để đột phá phát triển khoa học công nghệ. Ảnh minh họa: UTE

Gắn đào tạo đại học với nghiên cứu khoa học là yêu cầu tất yếu để đột phá phát triển khoa học công nghệ. Ảnh minh họa: UTE

Về quản trị quốc gia, cần có cách tích hợp hệ thống nghiên cứu khoa học và hệ thống đào tạo vào nhau, không nên để tách biệt thành hai hệ thống riêng rẽ. Các trường đại học là đối tác đầu tiên được xem xét phân bổ nguồn kinh phí đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Các dự án sẽ được chú ý xem xét phê duyệt khi có các trường đại học tham gia tư vấn hoặc thẩm định. Kinh phí do các doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo đại học và nghiên cứu khoa học nên được xem xét miễn giảm thuế tương ứng (tức là được tính vào chi phí trước thuế).

Thứ năm, cần kết nối tam giác nhà nước - doanh nghiệp - nhà khoa học. Sự hợp tác này là xu thế tất yếu. Doanh nghiệp đặt bài toán; nhà khoa học giải bài toán; nhà nước tạo cơ chế hỗ trợ thông thoáng và môi trường an toàn. Khi ba chủ thể cùng nhìn về một hướng, nguồn lực khoa học và công nghệ mới được huy động hiệu quả và mang lại giá trị thực tiễn.

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng nhấn mạnh để tạo môi trường cởi mở, thông thoáng hơn cho nhà khoa học dám nghĩ, dám làm cần xây dựng hệ thống đánh giá nghiên cứu theo chuẩn quốc tế: Kết quả nghiên cứu được đánh giá bởi hội đồng khoa học độc lập, với trọng tâm là “giá trị mới”, không phải “có đạt chỉ tiêu” hay không.

Đặc biệt cần ưu tiên đầu tư trọng điểm vào lĩnh vực mũi nhọn. Tập trung cho công nghệ lõi như AI, chip bán dẫn, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo… - những lĩnh vực có thể đưa Việt Nam đi tắt, đón đầu trong thời kỳ hội nhập.

 Cần ưu tiên đầu tư trọng điểm vào lĩnh vực mũi nhọn như chip bán dẫn. Ảnh minh họa: UIT

Cần ưu tiên đầu tư trọng điểm vào lĩnh vực mũi nhọn như chip bán dẫn. Ảnh minh họa: UIT

Có thể thấy, khoa học công nghệ không thể cất cánh nếu bị ràng buộc bởi nỗi sợ thất bại. Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên mà tốc độ phát triển công nghệ nhanh hơn khả năng thích ứng của chính sách. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải đi trước một bước, tạo ra “hành lang pháp lý” rõ ràng, minh bạch để thúc đẩy đổi mới. Cần chấp nhận một mức độ rủi ro nhất định, cần đầu tư vào những điều chưa chắc chắn, cần tin tưởng vào những nhà khoa học đang lặng lẽ xây nền móng cho tương lai.

"Một thể chế cởi mở, một chính sách linh hoạt, một cơ chế tài chính mạo hiểm, và quan trọng nhất - một niềm tin bền bỉ vào trí tuệ Việt - chính là con đường để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực then chốt cho phát triển đất nước", Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng nhấn mạnh.

Nhật Lệ

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/ts-vu-ngoc-hoang-quan-ly-khcn-can-chuyen-tu-kiem-soat-sang-trao-quyen-va-ho-tro-post252152.gd