Từ điển - sách công cụ ngành Y Dược học ở Việt Nam
'Từ điển huyết học và truyền máu' của Ths-BS Nguyễn Duy Long vừa được ra mắt giới chuyên môn. Đây được coi là cuốn từ điển y học xuất hiện mới nhất (cuối năm 2024), dày đến ngàn trang giấy khổ lớn, chứa đựng và giải thích được cho khoảng 12 ngàn mục từ chuyên môn tiếng Việt có đối chiếu với tiếng Anh và tiếng Pháp.
Đặc biệt, đầu sách tác giả còn có phần dẫn nhập bàn về “Tiêu chuẩn và cách thức xây dựng thuật ngữ huyết học và truyền máu tiếng Việt” (từ trang XIII đến trang XXXIV); phần tra cứu Anh-Việt đặt ở cuối sách (trang 827-1009) giúp cho sách có công dụng thêm như một từ điển thuật ngữ Anh-Pháp-Việt.

Bìa cuốn Từ điển huyết học và truyền máu"của Ths-BS Nguyễn Duy Long.
Nhìn lại, nền y học hiện đại du nhập vào Việt Nam từ hơn 150 năm qua, tuy nhiên từ điển-sách công cụ của ngành y học ở Việt Nam lại ra đời muộn hơn, từ những năm 60 của thế kỷ trước, khi cả hai miền Nam-Bắc (lúc đó) điều cùng thực hiện chủ trương Việt hóa từ ngữ khoa học, trong đó có y khoa.
Có thể nói, việc du nhập nền y học hiện đại (phân biệt với y học cổ truyền) vào Việt Nam chỉ khởi đầu kể từ khi một số tỉnh ở phía Nam nước ta bị lọt vào quyền cai trị của quân viễn chinh Pháp (Hòa ước Nhâm Tuất 1862), cùng với sự ra đời của một bệnh viện lâu đời nhất nước ta là Nhà thương Chợ Quán (được xây dựng từ năm 1860, bắt đầu nhận bệnh từ 1861), nay là Bệnh viện Nhiệt đới TP.HCM.
Sau Hòa ước Giáp Thân 1884, toàn cõi Việt Nam chính thức trở thành thuộc địa của Pháp. Từ năm 1888 Pháp lập ra sở y tế ở Đông Dương để chỉ đạo về công tác y tế. Ngày 27.2.1902 toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã cho lập trường thuốc ở Hà Nội (Hiệu trưởng đầu tiên của trường là Yersin), đến năm 1914 đổi tên thành trường y dược.
Với lịch sử sơ lược như trên, chúng ta mặc nhiên hiểu rằng tất cả mọi sự học tập-giảng dạy ở bậc cao đẳng-đại học cũng như việc phổ biến các kiến thức về y dược cho dân chúng trong giai đoạn đầu ở nước ta đều dùng toàn thuật ngữ y dược học tiếng Pháp, kéo dài mãi đến những năm 50 và đầu những năm 60 của thế kỷ trước. Việc giảng dạy y dược trong giai đoạn này vì vậy có cả giáo sư Pháp lẫn Việt phụ trách, nhưng chủ yếu họ cũng giảng bằng tiếng Pháp; chỉ một số ít giáo sư Việt giảng bằng tiếng Việt.
Trong các thời kỳ chuyển tiếp, chúng ta thấy rải rác có những bài viết phổ thông về y học bằng tiếng Việt có chua thêm tiếng Pháp bên cạnh một số thuật ngữ, đăng trên một số báo/ tạp chí khoa học. Càng về sau, từ năm 1945 hoặc 1954 trở đi, khi hầu hết các trường học ở mọi cấp lớp tại nước ta chuyển sang giảng dạy bằng tiếng Việt, thì việc dùng Pháp ngữ để dạy môn y dược ở bậc cao đẳng-đại học đã trở thành một trở ngại rất lớn cho sinh viên Việt Nam. Từ đây, xuất hiện nhu cầu bức thiết phải dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ ở bậc đại học, đặc biệt quan trọng đối với các ngành khoa học tự nhiên nói chung và y dược học nói riêng.
Tại miền Bắc, từ năm 1953, tiếng Việt được hoàn toàn dùng làm chuyển ngữ ở bậc đại học. Còn ở miền Nam, sách Chương trình Trung học 1958 do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản đã đưa ra chủ trương “Sẽ tiến tới việc dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ ở bậc đại học, nhưng việc này phải được chuẩn bị ngay từ bây giờ bằng: -việc đào tạo giáo sư đại học; -việc thống nhất danh từ; - việc biên soạn và dịch thuật các sách”.
Nhận thấy sự cần thiết của việc xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ y-dược học tiếng Việt để thay dần cho Pháp ngữ (và cả cho Anh ngữ về sau này), một vài loại tập san thuộc ngành y dược xuất bản trong Nam, ngoài phần chính gồm những bài chuyên luận tiếng Pháp xen kẽ với bài viết tiếng Việt, thường còn có thêm phần phụ đăng dần trên từng số báo, đối chiếu danh từ Latinh-Pháp-Việt hoặc Pháp-Anh-Việt.
Đi tiên phong trong việc biên soạn thuật ngữ khoa học, không thể không kể đến công trình Danh từ khoa học (Toán, Lý, Hóa, Cơ, Thiên văn) của Hoàng Xuân Hãn. Tuy không thuộc lãnh vực y dược học, nhưng công trình này được coi như vừa là tấm gương chói lọi vừa là nguồn cảm hứng đầy sức thuyết phục cho việc khởi soạn các loại từ điển và sách công cụ tiếp sau trong lãnh vực y dược học.
Chính thức, cuốn Danh từ y học của Phạm Khắc Quảng và Lê Khắc Thiền được coi là cuốn từ điển y học đối chiếu Pháp-Việt đầu tiên của Việt Nam, do nhà xuất bản Minh Tân ở Paris xuất bản năm 1951. Ngoài ra, về một chuyên ngành của y học, trong những năm 50 của thế kỷ trước, còn thấy có cuốn Tự điển Danh từ Vi trùng học của Phạm Văn Huyến (Nghệ An, 1950), sau sửa chữa bổ sung thêm tiếng Anh, phát triển thành Tự điển danh từ Vi trùng học Pháp-Việt-Anh của cùng soạn giả (Giấy kiểm duyệt số 200 XB ngày 29.1.1959 của Nha Thông tin và Báo chí).
Được biên soạn trong giai đoạn sơ khai, không kể vẫn còn thiếu rất nhều từ mới, nhiều thuật ngữ tiếng Việt trong hai sách nêu trên, giờ xem lại thấy có vẻ ngây ngô mộc mạc, hoặc ngược lại thường xen lẫn có những từ dài dòng, khó hiểu.
Từ năm 1954, sau Hiệp định Genève, đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam-Bắc.
Tại miền Nam, công trình có tính cách tập đại thành duy nhất và đầu tiên là cuốn Danh từ Y học của BS Lê Khắc Quyến, do Nhà sách Khai Trí ấn hành lần đầu năm 1966 (khởi in từ năm 1962 nhưng kéo dài), dày 944 trang khổ 14 x 20 cm. Một nỗ lực cá nhân đáng khâm phục, nhưng khuyết điểm chính của nó là đặc biệt có khuynh hướng mượn dùng quá nhiều thuật ngữ của Trung Quốc phiên âm theo Hán Việt.
Riêng Y khoa Đại học đường Sài Gòn đã lần lượt xuất bản được trọn vẹn 6 tập Danh từ cơ thể học (Nomina Anatomica) Latinh-Pháp-Việt trong các năm 1963-1965.
Tại miền Bắc, có Từ điển Y học Nga-Việt của Hoàng Đình Cầu và Nguyễn Văn Trong (NXB Khoa Học, Hà Nội, 1967). Về bộ môn Răng-Hàm-Mặt, có Thuật ngữ Răng-Hàm-Mặt Việt-Pháp-Anh-Đức-Nga của Võ Thế Quang, do Hội Răng-Hàm-Mặt xuất bản năm 1971.
Tuy nhiên, đáng chú ý nhất vẫn là bộ Danh từ Y Dược Pháp-Việt gồm 2 tập (tập I: phần Y; tập II: phần Dược) xuất bản lần đầu năm 1963 do BS Hoàng Đình Cầu chủ biên, Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch đề tựa (tháng 7.1962). Đây là một công trình tập thể quy mô lớn, có sự tham gia biên soạn, thẩm duyệt của hàng chục nhà chuyên môn, phần lớn là các bác sĩ, giáo sư y khoa đầu ngành.
Đến năm 1976, sách được gộp in chung thành một quyển có sửa chữa bổ sung với 60.000 mục từ, dày 704 trang khổ 16 x 24 cm. Công trình có giá trị này biên soạn khá công phu, đã cố gắng Việt hóa nhiều thuật ngữ, được coi là đặt nền tảng cho thuật ngữ y học tại Việt Nam mà các từ điển y học xuất hiện sau nó cả ngoài Bắc lẫn trong Nam phần nhiều đều dùng làm tài liệu tham khảo chính.
Đến năm 2001, công trình này được bổ sung thêm phần đối chiếu tiếng Anh cho những từ đơn, thành Từ điển Y Học Pháp-Anh-Việt do NXB Y Học ấn hành, chỉ tiếc một điều là sách có đến khoảng trống gần 50 năm không được bổ sung cập nhật từ mới, và tiếng Pháp ngày nay cũng lại ít được thông dụng trong các trường đại học có phân khoa y dược.
Về sau, trên cơ sở tham khảo phát huy từ bộ Danh từ Y Dược Pháp-Việt, BS Bùi Khánh Thuần đã soạn ra Từ điển Y học Anh-Việt, dày 1.188 trang khổ 16 x 24 cm, do NXB Ngoại Văn-NXB Y Học ấn hành năm 1988, đến nay vẫn được coi là bộ từ điển y học Anh-Việt đầy đủ nhất và tương đối đáng tin cậy hơn cả, nhưng khuyết điểm cũng gần giống như cuốn trên, ở chỗ không thu thập được những từ hoặc cụm từ y học mới xuất hiện từ năm 1985 đến nay.

Từ điển y học Dorland Anh-Việt của nhóm dịch thuật Trí Tri. Nguồn: Internet
Sau khi hòa bình lập lại, kể từ năm 1975 trở đi, cùng với tình hình tiếng Anh ngày càng phổ cập nhiều hơn trong mọi ngành khoa học, các loại từ điển và sách công cụ y dược (tổng quát hoặc chuyên ngành hẹp, đối chiếu hoặc vừa đối chiếu vừa giải thích) đã xuất hiện ngày một nhiều, nhưng khuynh hướng sử dụng tiếng Anh làm mục từ đã tỏ ra khuynh loát hẳn so với tiếng Pháp và tiếng Nga.
Tính đến nay, tổng số các công trình được công bố có chừng 60-70 các loại từ điển chuyên ngành y khoa. Bên cạnh các ấn phẩm được biên soạn công phu, nhận xét chung về các sách công cụ trong bản liệt kê nêu trên, chúng tôi nhận thấy ở chúng quy mô và chất lượng tuy không đồng đều nhưng hầu hết đều có ích cho việc tra cứu ở những mức độ khác nhau. Vài quyển nhỏ được biên soạn không mấy công phu, thậm chí cá biệt có quyển đã bị biên soạn một cách cẩu thả, để lại khá nhiều lỗi in ấn và lỗi chính tả. Điểm hạn chế chung của tất cả là chưa thu thập được những từ ngữ y khoa mới xuất hiện trong khoảng 15-20 năm gần đây…
Tuy nhiên, trong điều kiện giới hạn ấy, chúng tôi vẫn đặc biệt đánh giá cao một số công trình có giá trị tham khảo cả về quy mô lẫn công phu/ chất lượng biên soạn, như Từ điển giải phẫu học Latinh-Anh-Pháp-Việt của Nguyễn Quang Quyền, Từ điển phụ sản của Nguyễn Đức Hinh, Từ điển y học Dorland Anh-Việt của nhóm dịch thuật Trí Tri (Công ty Văn hóa Văn Lang), Từ điển bách khoa y học Anh-Việt của Ngô Gia Hy (chủ biên)...