Tự hào về những năm làm báo ở chiến trường Trị Thiên Huế
HNN - Quê tôi ở làng Trúc Lâm, phường Hương Long, thành phố Huế. Năm 1954, tôi đậu bằng Trung học đệ nhất cấp tại Trường Trung học Khải Định (Quốc học Huế). Sau Hiệp định Geneve, tôi xin ra Bắc để tiếp tục đi học. Tôi học Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An. Tốt nghiệp khóa 3 Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1958 - 1961), tôi được phân công về Vụ Báo chí Bộ Ngoại giao.

Từ trái sang phải: Hóa, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Nguyên Vấn, Nguyễn Văn Đồng, Yêm ở Phú Lộc năm 1972. Ảnh: Trọng Thanh
Để chuẩn bị làm một nhà báo, có thể làm tốt các phần việc từ việc viết tin cho đến bình luận, tôi xin chuyển sang Ban Biên tập miền Nam một năm làm việc ở Phòng Thời sự. Tôi quen dần với công việc làm tin và khai thác các bản tin của Thông tấn xã Việt Nam. Tháng 4/1967, tôi được vào chiến trường Trị Thiên Huế, lấy bút danh Trần Phương Trà.
Tôi đã làm Báo Cờ Giải Phóng của Thành ủy Huế. Sau đó, nhà thơ Thanh Hải và tôi được điều động về Ban Tuyên huấn Khu ủy Trị Thiên Huế do Thiếu tướng Lê Chưởng làm trưởng ban, nhạc sĩ Trần Hoàn và anh Lê Dự là phó trưởng ban. Tôi cũng tham gia làm Báo Quyết Thắng của Mặt trận Dân tộc giải phóng khu Trị Thiên Huế.
Đến dự Đại hội Chiến sĩ thi đua của huyện Hương Thủy cuối năm 1967, tôi được đồng chí Nguyễn Xuân Ngà, Bí thư Huyện ủy yêu cầu xây dựng một bản báo cáo cho chiến sĩ thi đua Nguyễn Thị Lài. Về sau, chị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng.
Năm 1967, vùng giải phóng mở rộng đến nhiều xã của Hương Thủy, Phú Vang. Tôi đã về sống ở làng Đình Môn, gần lăng vua Gia Long và xã Thủy Phương (Mỹ Thủy). Cuối năm 1967, sau khi tham gia làm tờ Báo Cờ Giải Phóng số Tết Mậu Thân, tôi được anh Trần Hoàn giao cho việc chuẩn bị những tài liệu, văn kiện để viết bài phát thanh. Tôi được nhận một máy ghi âm Philip để thu thanh các tuyên bố, các tiếng nói của lãnh đạo Mặt trận, nhân sĩ, trí thức Huế chuẩn bị tiếp quản Đài Phát thanh Huế…
Anh chị em cán bộ tuyên huấn, báo chí, văn nghệ ở Trị Thiên Huế đã theo các hướng về Huế và Quảng Trị. Còn lại anh Trần Hoàn, Hoàng Phủ Ngọc Tường… và tôi ở cạnh Bộ Chỉ huy. Ngày mồng 8 Tết, anh Hoàn và tôi cũng được về Huế theo đoàn của Thiếu tướng Lê Chưởng, Chính ủy chiến dịch về Sở chỉ huy tiền phương của Bộ chỉ huy chiến dịch. Sống giữa rừng già đã lâu, lần này về tới đồng bằng, với thành phố, chúng tôi háo hức ngắm nhìn những làng mạc vùng An Đô, La Chữ...
Đầu năm 1968, anh Đặng Lế, quê ở làng Mộc Trụ, Vinh Phú (Phú Vang) từ Huế về quê tham gia cách mạng. Trong một lần giặc lật hầm bí mật bắt, bị tra tấn hết sức dã man nhưng Đặng Lế đã không khai báo. Anh giả vờ dẫn tiểu đội giặc chỉ hầm súng và đến ngay nơi du kích đã chôn mìn, dùng ngón chân cái móc sợi dây giật mìn nổ. Diệt được tiểu đội giặc, Đặng Lế đã hy sinh anh dũng. Nhà văn Tô Nhuận Vỹ hồi ấy công tác ở Hương Thủy, Phú Vang có viết bài báo về tấm gương anh hùng ấy đăng trên Báo Cờ Giải Phóng của Thành ủy Huế. Dựa vào bài báo ấy và tìm hiểu thêm các cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân Phú Vang về Đặng Lế, tôi viết bài vè “Tiếng mìn Đặng Lế” vào năm 1968. Bài được gởi về các địa phương và điện cho Đài Phát thanh giải phóng. Đài đã dàn dựng và phát thanh theo điệu bài chòi.
Tháng 4/1969, chúng tôi tổ chức Đại hội thành lập trại sáng tác của Chi hội văn nghệ giải phóng Trị Thiên Huế. Ban Chấp hành Chi hội có 15 người. Nhạc sĩ Hồ Thuận An (Trần Hoàn) được bầu làm Chi hội trưởng, nhà thơ Thanh Hải, Chi hội phó kiêm Tổng thư ký. Các chi hội phó gồm nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà viết kịch và đạo diễn Thanh Huyền, Ủy viên Thường trực kiêm Phó Tổng thư ký là nhà viết kịch Nguyễn Tuyến Trung (Nguyễn Kim Cúc). Các ủy viên khác: Thuận Yến, nhạc sĩ trong Quân giải phóng; Nguyễn Hữu Vấn, nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc; Thu Lường, diễn viên dân ca Trị Thiên; Ku Lai, dân tộc Pa Cô, Đội trưởng đội văn công miền Tây Trị Thiên; Trần Vàng Sao, nhà thơ; Phong Hải, nhà văn trong Quân giải phóng; chị Phương Nhi, diễn viên múa Đoàn văn công Quân giải phóng Trị Thiên Huế; Trần Phương Trà, nhà văn; Lê Khánh Thông, họa sĩ Báo Cờ Giải Phóng Huế; Vân Dung, nhạc sĩ.
Chi hội văn nghệ giải phóng Trị Thiên Huế ra Tạp chí Sinh hoạt Văn nghệ. Số đầu in bằng rônêo. Các anh Trần Hoàn, Nguyễn Kim Cúc, Nguyễn Khoa Điềm và tôi biên tập, theo dõi in và phát hành. Sau đó, tạp chí được in tại nhà in của Báo Quyết Thắng, cơ quan của Mặt trận Dân tộc giải phóng khu Trị Thiên Huế.
Năm 1970, nhà in Báo Quyết Thắng bị dính bom B.52. Bảy công nhân bị chết không tìm được thi thể.
Ngày 31/10/1971, trại sáng tác văn học của Chi bộ Văn nghệ giải phóng Thừa Thiên Huế khai mạc. Tham gia trại có 8 người: Nguyễn Tuyến Trung, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Quang Hà, Quế Lâm, Hà Nguyên, Trần Lâm, Trần Phương Trà. Mới được 20 ngày thì khu nhà Ban Tuyên huấn Khu ủy bị một trận bom B.52. Lúc này, Nguyễn Khoa Điềm và tôi ở cùng một hầm. Tôi bị thương vào trán phải đi bệnh viện.
Năm 1971, anh Nguyễn Kim Cúc và tôi đi vùng Đường 9 - Nam Lào, đến các đơn vị vừa đánh vào Khe Sanh.
Tạp chí Sinh hoạt Văn nghệ số 4 năm 1971 có bài thơ “Ta xây mộ mày ở Bản Đông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, “Đường 9” của Nguyễn Quang Hà, “Miền Nam ở Đường 9 - Khe Sanh” của Vũ Ngàn Chi, “Chúng con đang hành quân trên đường về chiến thắng” của Thanh Hải, “Lửa cười” của Nguyễn Đắc Xuân, “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm… Kịch ngắn “Định hướng” của Nguyễn Tuyến Trung, truyện ngắn “Tìm” của Trần Phương Trà và nhà văn Xuân Thiều (Nguyễn Thiều Nam) có bài “Những ngòi bút, những tấm lòng”, cảm nghĩ khi đọc tập ký và truyện Trị Thiên Huế. Hồ Thuận An (Trần Hoàn) có bản nhạc “Đường chúng ta, đường Hồ Chí Minh”, lời phỏng thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường; Hoàng Phú có bản nhạc “Bạn Lào ơi! Hãy nổi trống lâm vông”.
Năm 1972, tôi chuyển về Ban Tuyên huấn Thành ủy Huế, làm tờ báo Cứu lấy quê hương do nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường - Tổng Thư ký Liên minh dân tộc dân chủ và hòa bình thành phố Huế phụ trách. Tháng 8/1973, tôi bị viêm gan do sốt rét nhiều năm nên được chuyển ra Bắc chữa bệnh. Với gần 6 năm rưỡi ở chiến trường Trị Thiên Huế, tôi đã làm nhiều tờ báo và có góp công sức và tuổi trẻ cho quê hương. Tôi tự hào về điều đó và giữ nhiều kỷ niệm tốt đẹp về những năm tháng ấy.