Từ kẹo 'Kera' đến bài toán minh bạch thực phẩm: Giải pháp nào cho doanh nghiệp?

Vụ việc kẹo rau củ 'Kera' gây xôn xao dư luận gần đây cho thấy sự chênh lệch thông tin giữa người bán và người mua có thể dẫn đến mất lòng tin vào thị trường. Để khắc phục vấn đề này, Nhãn hiệu chứng nhận được xem là một giải pháp quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng và bảo vệ người tiêu dùng.

Trong kinh tế học, có một học thuyết về sự bất cân xứng thông tin (Asymmetric information) do nhà kinh tế học George A. Akerlof đề xuất vào thập niên 1970, chỉ ra rằng trên thị trường người bán luôn nắm rõ thông tin về sản phẩm hơn người mua”(1). Akerlof mô tả cách hàng kém chất lượng (gọi là “quả chanh”) có thể lấn át hàng tốt khi người mua không thể phân biệt rõ. Khi bị lừa vài lần, người mua trở nên dè chừng, chỉ chịu mua với giá thấp để giảm rủi ro. Hệ quả là hàng chất lượng tốt bị đẩy ra khỏi thị trường, còn hàng “dỏm” lên ngôi, làm niềm tin của người tiêu dùng sụt giảm. Khi thị trường ngập tràn “quả chanh”, người mua chán nản rời đi, khiến cả hệ thống rơi vào vòng luẩn quẩn suy thoái.

Tình trạng như trên càng đặc biệt được quan tâm hơn đối với hàng hóa là thực phẩm, vì đó là những gì mà khách hàng trực tiếp đưa vào cơ thể, có thể ảnh hưởng ngay đến sức khỏe của mình. Và sự việc liên quan đến sản phẩm kẹo rau củ “Kera” trong thời gian gần đây là một ví dụ điển hình. Trước thực trạng này, nhãn hiệu chứng nhận (NHCN) là một công cụ hữu hiệu giúp doanh nghiệp khẳng định chất lượng sản phẩm và bảo vệ người tiêu dùng.

Nhãn hiệu chứng nhận: bảo vệ doanh nghiệp và người tiêu dùng

Theo khoản 18 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (Luật SHTT), nhãn hiệu chứng nhận “là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu”.

Từ khái niệm trên, có thể thấy NHCN là một dạng nhãn hiệu, nhưng khác với nhãn hiệu thông thường bởi có các đặc điểm như sau:

Thứ nhất, chủ sở hữu NHCN không trực tiếp sử dụng NHCN trên hàng hóa, dịch vụ của mình mà sẽ cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng NHCN trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó.

Thứ hai, NHCN được sử dụng để “chứng nhận” các đặc tính của hàng hóa, dịch vụ. Điều này có nghĩa rằng nếu như mục đích chính của một nhãn hiệu thông thường và giúp người tiêu dùng phân biệt được hàng hóa, dịch vụ của các nhà sản xuất khác nhau, ví dụ nhãn hiệu “Vinfast” giúp phân biệt ô tô của họ với ô tô của Honda, Suzuki, Toyota... thì mục đích chính của NHCN là chứng nhận đặc tính của hàng hóa, dịch vụ mang NHCN so với hàng hóa, dịch vụ khác cùng loại.

Cũng chính từ hai đặc điểm nêu trên, pháp luật có quy định chỉ có tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận mới có quyền đăng ký bảo hộ NHCN với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ(2). Như vậy, có thể hiểu rằng không phải bất kỳ chủ thể nào cũng có quyền đăng ký NHCN mà phải đáp ứng đủ ba điều kiện: (1) là tổ chức (loại trừ chủ thể là cá nhân); (2) phải có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính hàng hóa, dịch vụ; (3) không sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mang NHCN.

Trên thực tế, các NHCN có những tác động rất tích cực đối với thị trường các nước. Tiêu biểu có thể kể đến Pháp với các NHCN như “Qualité France”, “Label agricole”, nhãn hiệu đỏ “Label Rouge”. Trong đó, “Lable Rouge” là dấu hiệu đảm bảo chất lượng tại Pháp theo quy định của Luật số 2006-11 (ngày 5-1-2006). Các sản phẩm đủ điều kiện để được dán nhãn “Label Rouge” bao gồm thực phẩm, các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến và hoa. Theo Bộ Nông nghiệp Pháp: “Nhãn đỏ chứng nhận rằng một sản phẩm có một tập hợp các đặc điểm cụ thể tạo nên mức độ vượt trội so với sản phẩm hiện tại tương tự”(3).

Còn tại Úc, NHCN “Australian Made” và “Australian Grown” (AMAG) là biểu tượng quốc gia uy tín, đảm bảo sản phẩm có nguồn gốc từ nước này. Được quản lý bởi Australian Made Campaign Ltd (AMCL) và kiểm định bởi bên thứ ba, logo của NHCN với hình ảnh chuột túi xanh - vàng chỉ được cấp cho sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn nghiêm ngặt theo pháp luật Úc. Suốt hơn 35 năm, AMAG không chỉ giúp doanh nghiệp khẳng định chất lượng mà còn trở thành công cụ marketing mạnh mẽ, giúp người tiêu dùng dễ dàng nhận diện hàng hóa xuất xứ từ Úc(4).

Có thể thấy, NHCN là công cụ quan trọng để nâng cao uy tín sản phẩm, giúp người tiêu dùng dễ dàng nhận diện hàng hóa đạt tiêu chuẩn và tạo môi trường kinh doanh minh bạch hơn.

Sử dụng NHCN sao cho hữu hiệu?

Vấn đề tối quan trọng trong việc sử dụng NHCN là quá trình xây dựng và kiểm soát bộ tiêu chí chứng nhận đối với sản phẩm mang NHCN. Hay nói cách khác, chủ sở hữu NHCN phải xây dựng được bộ tiêu chí cụ thể cho các hàng hóa, dịch vụ mang NHCN và một cơ chế kiểm tra, kiểm soát hiệu quả, chặt chẽ việc tuân thủ bộ tiêu chí đó. Hai nội dung trên được thể hiện trong “Quy chế sử dụng NHCN”, một tài liệu bắt buộc trong hồ sơ đăng ký bảo hộ NHCN tại Cục Sở hữu trí tuệ(5).

Ở Việt Nam, đa số NHCN được sử dụng để chứng nhận nguồn gốc địa lý cho đặc sản địa phương, có thể kể đến như “Bò Tây Ninh”, “Chanh Cao Lãnh”, “Đà Lạt - Kết tinh kỳ diệu từ đất lành”, “Gà đồi Yên Thế”... Bộ tiêu chí chứng nhận của các NHCN này cũng có một phần chỉ tiêu về chất lượng nhưng chỉ mang tính bổ sung, hỗ trợ. Ngoài ra, vì chủ sở hữu các NHCN này thường là cơ quan Nhà nước nên gặp nhiều trở ngại trong hoạt động cấp quyền sử dụng và thương mại hóa sản phẩm.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có các NHCN về chất lượng sản phẩm, tiêu biểu là NHCN “Hàng Việt Nam Chất Lượng Cao do người tiêu dùng bình chọn” (HVNCLC) của Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao TPHCM và NHCN “Vietnam Value” của Cục Xúc tiến thương mại - Bộ Công Thương.

HVNCLC được cấp quyền sử dụng cho các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam dựa trên kết quả bình chọn của người tiêu dùng. Còn “Vietnam Value” gắn với chương trình Thương hiệu Quốc gia Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 253/2003/QĐ-TTg ngày 25-11-2003. Đây là chương trình xúc tiến thương mại đặc thù, dài hạn và duy nhất của Chính phủ nhằm xây dựng, phát triển thương hiệu quốc gia thông qua việc hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng, phát triển các thương hiệu mạnh. Hệ thống tiêu chí của Chương trình được quy định tại Thông tư 33/2019/TT-BCT của Bộ Công Thương với ba tiêu chí xét chọn gồm chất lượng, đổi mới sáng tạo và năng lực tiên phong.

Tuy nhiên, hai NHCN này có đối tượng hàng hóa, dịch vụ khá rộng chứ không dành riêng cho thực phẩm. Ngoài ra, yếu tố “Việt Nam” cũng giới hạn các sản phẩm này phải là sản phẩm được sản xuất trong nước, không điều chỉnh được các sản phẩm có nguồn gốc từ nước ngoài. Riêng “Vietnam Value” hướng đến các doanh nghiệp lớn, tiêu biểu gắn với việc nâng cao sức mạnh thương hiệu quốc gia Việt Nam.

Một số dấu hiệu chứng nhận khác cũng dần quen thuộc với người tiêu dùng là các hệ thống chứng nhận chất lượng như VietGAP, GlobalGAP, HACCP, USDA, HALAL, JAS... Tuy nhiên, các dấu hiệu chứng nhận này cũng có những nhược điểm nhất định đối với thị trường trong nước như một số chỉ tập trung về quy trình chứ không phải chất lượng sản phẩm cuối (như VietGAP, GlobalGAP); một số đòi hỏi chi phí đầu tư cao, thường được áp dụng cho sản phẩm xuất khẩu gắn với từng thị trường.

Do vậy, việc xây dựng các dấu hiệu chứng nhận mang màu sắc Việt Nam và dành riêng cho mặt hàng nông sản, thực phẩm là điều rất cần thiết. Hiện tại, Việt Nam bắt đầu có những quan tâm đầu tiên thông qua việc xây dựng NHCN mang tính quốc gia cho các sản phẩm chủ lực như gạo, cà phê... Điều này không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nước mà còn giúp nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trong bản đồ nông sản thế giới khi sản phẩm nước ngoài vào Việt Nam cũng phải tuân thủ các tiêu chí chứng nhận này.

Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, NHCN không chỉ bảo vệ người tiêu dùng mà còn giúp doanh nghiệp khẳng định chất lượng và nâng cao vị thế thương hiệu. Tuy nhiên, để NHCN thực sự hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Khi được triển khai đúng cách, NHCN sẽ trở thành lá chắn vững chắc chống hàng kém chất lượng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững.

(*)Trưởng phòng Pháp chế, Trung tâm Nghiên cứu công nghệ và Sở hữu trí tuệ CIPTEK.

(1) George A. Akerlof, “The Market for “Lemons”: Quality Uncertainty and the Market Mechanism”, The Quarterly Journal of Economics, Volume 84, Issue 3 (Aug., 1970), 488-500.

(2) Khoản 4 điều 87 Luật SHTT

(3) Wikipedia, https://en.wikipedia.org/wiki/Label_Rouge , truy cập ngày 17-3-2025.

(4) https://australianmade.com.au/why-buy-australian-made/about-the-logo/ , truy cập ngày 17-3-2025.

(5) Điểm b khoản 1 điều 105 Luật SHTT

Nguyễn Trần Hải Đăng(*)

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/tu-keo-kera-den-bai-toan-minh-bach-thuc-pham-giai-phap-nao-cho-doanh-nghiep/