Từ tiếng ca bên dòng Cái Bé đến chiếu lác Tà Niên
'Chiếu Tà Niên anh trải em nằm/ Phải duyên chồng vợ trăm năm anh chờ' - câu ca dao mộc mạc như chất chứa cả một vùng văn hóa, gói ghém tinh thần thủy chung và bàn tay tài hoa của những người con đất Vĩnh Hòa Hiệp (Châu Thành, Kiên Giang).

Chiếu Tà Niên một thời vang bóng (Trong ảnh: Nghệ nhân Ngô Thị Hiền (bên phải) - người dệt chiếu đôi lẫy đạt HCV Hội chợ thương mại toàn quốc 1994)
Nằm bên hữu ngạn dòng Cái Bé hiền hòa, làng Tà Niên, nơi người Khmer gọi là Crò-tiêl, từ bao đời nay vẫn lách cách tiếng khung cửi dệt chiếu. Không chỉ là sản phẩm tiêu dùng, chiếu Tà Niên còn là biểu tượng của sự kết tinh giữa bàn tay lao động cần cù và nét thẩm mỹ dân gian tinh tế. Trải qua thăng trầm lịch sử, làng nghề vẫn bền bỉ gìn giữ từng sợi cỏ lác, từng nét hoa văn, như gìn giữ chính ký ức văn hóa của cả một vùng sông nước phương Nam.
Nghề truyền thống vẫn còn thổn thức
Nghề dệt chiếu ở Việt Nam có nguồn gốc lâu đời, gắn liền với vị Tổ nghề là Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ, người làng Hới (nay thuộc Thái Bình). Sau khi học được kỹ thuật dệt chiếu từ Quế Lâm (Trung Quốc), ông đã cải tiến khung dệt, phát triển nghề trồng lác và truyền đi khắp cả nước. Từ đó, những làng nghề như Hới, Nga Sơn rồi lan dần theo bước chân người Việt trong hành trình Nam tiến, gieo mầm nghề dệt tại những vùng đất mới.
Tại Hà Tiên (Kiên Giang xưa), nơi từng là điểm hội tụ của người Việt, người Hoa và người Khmer, nghề dệt chiếu nhanh chóng bén rễ. Theo nhiều giả thuyết, tên gọi “Hà Tiên” có thể xuất phát từ tiếng Khmer “Kro-tiêl” (chiếu) kết hợp với từ “Pem” (vàm sông), như một minh chứng sống động cho sự gắn bó giữa vùng đất này với nghề thủ công truyền thống. Trong đó, Tà Niên nổi lên là một trong những cái nôi tiêu biểu với những bãi lác gon tự nhiên trải dài, cung cấp nguyên liệu phong phú cho nghề dệt chiếu.
Chiếu Tà Niên nổi tiếng bởi độ bền, màu sắc hài hòa và hoa văn tinh tế, gắn liền với truyền thuyết về anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Đặc biệt, hoa văn chữ “Thọ” được dệt trên chiếu còn mang theo chiều sâu văn hóa và tinh thần bản địa. Trong suốt thế kỷ XX, chiếu Tà Niên đã góp mặt tại hàng loạt hội chợ danh tiếng trong và ngoài nước, từ Hà Nội, Sài Gòn đến Marseille (Pháp), góp phần giới thiệu văn hóa Việt đến bạn bè quốc tế. Những tấm chiếu mang tên Tà Niên từng đoạt huy chương vàng tại Hội chợ toàn quốc năm 1985, là niềm tự hào của Kiên Giang trong giai đoạn phát triển rực rỡ từ thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XX.
Tuy nhiên, sau cơn bão số 5 năm 1997, nghề dệt chiếu bắt đầu rơi vào giai đoạn khó khăn. Sự thay đổi thị hiếu tiêu dùng, thiếu hụt lao động kế thừa và việc công nghiệp hóa nông thôn đã khiến làng nghề dần mai một. Dẫu vậy, trong từng khung cửi xưa cũ, trong ký ức người dân bản địa, nghề dệt chiếu vẫn như ngọn lửa âm ỉ chờ được khơi lại...
Hơi thở Tà Niên trong từng sợi lác
Nguyên liệu chính của chiếu Tà Niên là cây lác, loại thực vật mọc tự nhiên ở vùng đất ngập mặn ven biển, thuộc họ Cyperus. Cọng lác dài từ 1-2 mét, màu xanh nhạt, thân thon, phần ngọn xòe tua như vương miện. Người dân tận dụng sự sinh trưởng tự nhiên này để thu hoạch đến 3 vụ mỗi năm, khai thác trong suốt 8-15 năm trên một chân ruộng.
Để chiếc chiếu bền chắc, người thợ phải dùng thêm sợi “bố” được se từ vỏ cây đay, đóng vai trò như khung xương nâng đỡ từng đường lác. Những guồng se sợi đay, những con dao nhỏ bén ngọt và khung dệt gỗ đơn sơ đã theo người thợ Tà Niên suốt cả cuộc đời, cùng họ dệt nên biết bao tấm chiếu phục vụ từ chợ quê đến những ngôi nhà sang trọng.
Quy trình làm chiếu bắt đầu từ khâu chẻ lác. Cọng lác sau khi thu hoạch được phân loại, chẻ đôi, bỏ ruột, chuốt bóng và phơi nắng liên tục 2-3 ngày. Nắng là yếu tố sống còn, nếu thiếu nắng, sợi sẽ xỉn màu, dễ gãy, làm giảm chất lượng chiếu. Sau khi phơi khô, lác được đem đi nhuộm, từng bó lác ngâm trong nước màu đun sôi để thấm đều, rồi tiếp tục phơi khô lần nữa.
Công đoạn dệt là quan trọng nhất. Khung dệt chiếu cần hai người, một người văng thoi, luồn sợi qua khung và một người dệt, kéo thanh dập tạo liên kết chặt chẽ cho từng sợi lác. Mỗi đôi chiếu thường dệt mất 4-5 giờ, riêng chiếu lẫy - dòng chiếu cao cấp, hoa văn cầu kỳ có thể mất đến 5-7 ngày mới hoàn thành, nặng gần 10kg và sử dụng được tới 7 năm mà không xuống cấp.

Trong những mái nhà xưa cũ, khung dệt chiếu Tà Niên vẫn ngân lên lách ca lách cách, vẫn còn những người thợ lặng lẽ giữ lửa cho một di sản
Chiếu Tà Niên cũng rất đa dạng, từ loại chiếu xô phổ thông dệt nhanh; chiếu trung với nguyên liệu đồng đều; chiếu đặt hàng kỹ lưỡng từng công đoạn. Dựa trên kỹ thuật dệt, chiếu được chia thành ba dòng chính: Chiếu lẫy (cao cấp, bền, chống thấm); chiếu nhuộm (màu sắc đơn giản, dệt nhanh); chiếu in (dệt bằng lác trắng, in hoa văn sau khi hoàn tất).
Từng là “cần câu cơm” cho hàng trăm hộ dân xã Vĩnh Hòa Hiệp, chiếu Tà Niên được tiêu thụ rộng rãi qua các thương lái, đơn đặt hàng hoặc bán trực tiếp trong vùng. Thậm chí, trước năm 1975, chiếu Tà Niên còn được xuất khẩu sang các thị trường như Malaysia, Nhật Bản, Ấn Độ, Pháp, Đức...
Dẫu vang bóng một thời, chiếu Tà Niên hôm nay đứng trước nhiều thách thức như khan hiếm nguyên liệu, nghề truyền thống mai một, người trẻ không còn mặn mà tiếp nối. Nhưng trong những mái nhà xưa cũ, khung dệt vẫn còn ngân lên lách ca lách cách, đâu đó vẫn còn những người thợ lặng lẽ giữ lửa cho một di sản.
Giữ lại một làng nghề
Không chỉ được tự hào vì giá trị kinh tế mang lại, chiếu Tà Niên còn vang danh vì sự bao dung của nó, từ người không biết chữ, lao động phổ thông đến cả những người khuyết tật đều có thể làm nghề. Đó là nơi nương thân, là chốn giữ gìn nếp nhà, nếp làng.
Thế nhưng, dòng đời thay đổi. Các cánh đồng lác ngày nào đã dần vắng bóng. Thị hiếu người tiêu dùng cũng chuyển dần sang các sản phẩm tiện lợi hơn như nệm cao su, chiếu trúc, chiếu nhựa. Chiếu lẫy, sản phẩm kỹ thuật cao, có hoa văn, chất lượng tốt nhất, gần như không còn ai đặt làm. Những người thợ còn lại giờ chỉ tranh thủ dệt chiếu vào lúc nông nhàn để kiếm thêm thu nhập. Cả một làng nghề lặng lẽ, lay lắt trong cảnh “lấy công làm lãi”, sản xuất cầm chừng.
Nghề dễ học nhưng không dễ giữ. Vì dù quy trình dệt chiếu không quá phức tạp, nhưng để tạo nên những sản phẩm thực sự đẹp, bền, hợp thị hiếu, người thợ phải có sự tỉ mỉ, sáng tạo và cả tâm huyết. Tiếc thay, nghề vẫn truyền qua từng gia đình theo kiểu “cha truyền con nối” mà chưa có sự tổ chức bài bản, chưa được quan tâm đúng mức để phát triển thành làng nghề thực thụ.
Sự mai một của chiếu Tà Niên là hồi chuông cảnh tỉnh cho nhiều làng nghề truyền thống khác. Trong bối cảnh hội nhập và hiện đại hóa, nếu không có chính sách hỗ trợ thiết thực, không có những mô hình hợp tác xã, liên kết sản xuất - tiêu thụ bài bản, thì những giá trị từng vang danh một thời như chiếu Tà Niên rất dễ bị xóa nhòa.
Giữ nghề là giữ làng! Để gìn giữ chiếu Tà Niên, cần sự chung tay của cả cộng đồng, từ chính quyền địa phương, ngành công thương, doanh nghiệp đến các tổ chức văn hóa. Cần có những định hướng rõ ràng trong quy hoạch phát triển làng nghề, kết nối sản phẩm thủ công truyền thống với du lịch, thương mại và giáo dục văn hóa cộng đồng.