Tương lai rạn nứt liên kết an ninh châu Âu - Mỹ

Theo khảo sát của các chuyên gia đến từ châu Âu, việc Mỹ có thể rút khỏi vai trò bảo vệ châu Âu sẽ gây chấn động được ví tương đương với một cuộc tấn công hạt nhân.

Nguy cơ càng hiện hữu hơn khi ông Donald Trump trở lại Nhà Trắng, với những chính sách gây tranh cãi như đàm phán trực tiếp với Nga mà bỏ qua Ukraine, yêu cầu châu Âu tự thực thi các thỏa thuận an ninh mà không có Mỹ, cùng những xung đột thương mại - công nghệ.

Khi liên kết trở thành quân bài

Trong nhiệm kỳ đầu, ông Trump liên tục chỉ trích việc châu Âu ỷ lại vào Mỹ, thậm chí suýt rút khỏi Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) vào năm 2018 nếu các nước không đạt mức chi 2% GDP cho quốc phòng. Mâu thuẫn càng sâu sắc khi Mỹ phản đối các sáng kiến quốc phòng độc lập của EU, cáo buộc chúng phân biệt đối xử với các doanh nghiệp Mỹ. Đến chiến dịch tranh cử 2024, ông Trump tiếp tục gia tăng sức ép, tuyên bố không bảo vệ đồng minh nào “chi tiêu ít ỏi”. Cố vấn Sumantra Maitra của ông còn đề xuất mô hình NATO “ngủ đông” - đóng băng vai trò của Mỹ và chỉ kích hoạt khi xảy ra khủng hoảng.

Một đơn vị đồn trú của Mỹ tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Một đơn vị đồn trú của Mỹ tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Căng thẳng không dừng lại ở lĩnh vực quốc phòng. Ông Trump từng đe dọa sáp nhập lãnh thổ đồng minh, áp thuế thương mại gây tổn hại cho EU, hay đàm phán kết thúc cuộc chiến Ukraine mà không có sự tham vấn của châu Âu. Tại Hội nghị an ninh Munich gần đây, Phó Tổng thống Mỹ JD Vance cáo buộc EU kiểm duyệt tự do ngôn luận, thậm chí đề xuất rút khỏi NATO nếu Brussels can thiệp vào hoạt động của các công ty Mỹ.

Những diễn biến trên cho thấy nhiệm kỳ 2 của ông Trump có thể đánh dấu bước ngoặt trong quan hệ Mỹ - EU, khi Washington sẵn sàng hy sinh liên minh để bảo vệ lợi ích của mình. Như Tổng thống Ukraine Zelensky cảnh báo: “Không loại trừ khả năng Mỹ nói “không” với châu Âu trước những mối đe dọa sống còn”. Trước viễn cảnh bấp bênh, EU buộc phải xây dựng chiến lược tự chủ cả về quốc phòng lẫn ngoại giao. Sự phụ thuộc vào Mỹ - vốn là trụ cột suốt 70 năm qua - giờ đây có thể trở thành điểm yếu chết người. Và, những tuyên bố cứng rắn và hành động quyết đoán của ông Trump đang dần biến viễn cảnh Mỹ “quay lưng” với châu Âu thành hiện thực.

Tương tự cách Mỹ sử dụng thuế quan như công cụ đa năng - vừa để tái cơ cấu chuỗi cung ứng toàn cầu, vừa làm đòn bẩy ép đối tác nhượng bộ - chính sách của ông Trump với châu Âu cũng có 2 mặt. Một mặt, việc “bỏ rơi” có thể là mục tiêu dài hạn nhằm tập trung nguồn lực đối phó với các đối thủ khác. Mặt khác, đó có thể chỉ là con bài mặc cả để vắt kiệt lợi ích từ châu Âu. Lịch sử cho thấy ông Trump thường xuyên chuyển hướng đột ngột, khiến cả 2 kịch bản đều có khả năng xảy ra đồng thời hoặc xen kẽ.

2 kịch bản

Với kịch bản đầu tiên được mô tả thì ông Trump có thể xem việc rút quân khỏi châu Âu như một chiến lược dài hạn: Mỹ tập trung đối phó với các thách thức, được cho là đến từ Trung Quốc, và ưu tiên bảo vệ biên giới trong nước. Điều này đồng nghĩa với việc cắt giảm dần sự hiện diện quân sự ở châu Âu.

Trong kịch bản này, Washington sẽ theo đuổi cách tiếp cận giao dịch đối với quốc phòng châu Âu, sử dụng mối đe dọa của việc rút quân, coi đó như công cụ ép EU tăng ngân sách quốc phòng, ưu tiên mua vũ khí Mỹ và nhượng bộ thương mại. Washington không muốn cắt đứt hoàn toàn quan hệ liên minh, mà tìm cách biến NATO thành “công cụ phục vụ lợi ích” của mình.

Theo đó, các nước EU buộc phải gia tăng chi tiêu quốc phòng, ký hợp đồng mua thiết bị quân sự Mỹ để tránh bị đe dọa rút quân. Về phần mình, Mỹ khen thưởng đồng minh “ngoan ngoãn” - như Ba Lan từng được hứa xây “Pháo đài Trump” - đồng thời có biện pháp với những nước ít hợp tác. Bên cạnh đó, quan hệ quốc phòng xuyên Đại Tây Dương bị song phương hóa. Cụ thể, Washington đàm phán riêng lẻ với từng quốc gia, khai thác mâu thuẫn nội khối EU.

Chiến thuật này phản ánh tư duy của nhiều đảng viên Công hòa truyền thống, vốn muốn duy trì ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ bằng cách tiếp tục xuất khẩu vũ khí sang châu Âu. Nó cũng phù hợp với tâm lý “ngại tự chủ” của một số nước EU - những quốc gia vẫn muốn dựa vào công nghệ quân sự Mỹ thay vì phát triển năng lực độc lập.

Kịch bản thứ 2, dành “đất” cho những cơ hội đàm phán tốt hơn, trở thành công cụ để Mỹ ép các nước châu Âu tăng ngân sách quốc phòng, mua vũ khí Mỹ hoặc nhượng bộ trong lĩnh vực thương mại, công nghệ. Hệ quả có thể dẫn đến sự phân mảnh trong liên minh quốc phòng xuyên Đại Tây Dương.

Đây là viễn cảnh tối ưu hóa nguồn lực Mỹ: Washington rút dần khỏi châu Âu để tập trung cho cuộc đua quyền lực ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, đồng thời đẩy gánh nặng đối phó Nga sang cho EU. Theo đó, Mỹ sẽ chuyển tàu chiến, máy bay, tên lửa tầm xa từ châu Âu sang châu Á, ưu tiên phòng thủ biên giới trong nước. Về công nghiệp quốc phòng, Lầu Năm Góc sẽ tập trung phát triển vũ khí phục vụ hải chiến thay vì chiến tranh trên bộ. Đặc biệt, đối với xung đột Ukraine, Mỹ thúc đẩy ngừng bắn vội vàng và giao trách nhiệm thực thi hòa bình cho EU. Kịch bản này được củng cố bởi “Dự án 2025” - lộ trình tư tưởng của phe Cộng hòa, trong đó nêu rõ: “Châu Âu phải tự răn đe Nga bằng lực lượng thông thường, trong khi Mỹ chỉ đảm nhận răn đe hạt nhân”. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Pete Hegseth và nhiều quan chức cấp cao ủng hộ quan điểm này, vì cho rằng Mỹ không đủ sức “chiến đấu trên tất cả mặt trận”.

Dù kịch bản nào xảy ra, EU cũng phải đối mặt với thách thức chưa từng có: Một nước Mỹ theo chủ nghĩa dân túy có thể hy sinh “Liên minh 70 năm” để theo đổi lợi ích ngắn hạn. Đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan, EU buộc phải xây dựng chiến lược đa diện, cân bằng giữa ngoại giao và tự chủ về quốc phòng.

Huy Thông

Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/su-kien-binh-luan-antg/tuong-lai-ran-nut-lien-ket-an-ninh-chau-au-my-i761373/