Uống trà ở Bắc Hà
Trong làng trà vẫn truyền miệng nhau, từ đời này sang đời khác, câu chuyện mang tính truyền thuyết lý giải nguồn gốc của trà. Chuyện kể rằng ngày xửa ngày xưa, ở vùng khai thiên lập địa nọ có hai vợ chồng cùng đứa con trai sinh sống. Ba người cùng họ hàng, dân bản chật vật mưu sinh, chật vật gây dựng bản làng.
Một buổi sáng nọ không thấy cha mẹ dậy sớm như mọi khi, người con vào định đánh thức thì chàng ồ lên kinh ngạc, chỉ qua một đêm mà tóc cha mẹ chàng đã bạc trắng, thân hình chỉ còn da bọc xương. Chàng sợ hãi đi gọi dân bản, nhưng ai nấy đều quặt quẹo ốm yếu như cha mẹ chàng. Sợ hãi, chàng ra miếu đầu bản thắp hương cầu xin thần núi cách chữa bệnh cho mọi người. Thần núi hiện lên bảo, muốn cứu được bệnh thì phải đi về hướng mặt trời lặn, khi nào cùng đường cùng lối khắc có người cho thuốc.
Nghe lời thần núi, chàng quyết định lên đường tìm thuốc cứu cha mẹ, dân bản. Con đường đi tìm thuốc của chàng như đường đi lên trời, biết bao núi cao, vực sâu chắn lối, thú dữ chặn đường, nhưng với lòng thương cha mẹ, dân bản, chàng vẫn quyết tâm vượt qua. Sau 1 ngày lội rừng đến kiệt sức, chàng leo lên một chạng cây ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau, chàng thức dậy trong khúc hát ngân nga của hàng trăm loài chim, trong tiếng reo ca hùng tráng của thác nước.
Chàng chưa kịp định thần mình tỉnh hay mơ thì một đàn 13 con hạc trắng từ trên trời cao hạ xuống ngay gốc cây cổ thụ mà chàng đang núp. Những con hạc trút bỏ bộ cánh, hiện thành 13 cô gái lộng lẫy, mỗi người hái một nắm búp lá xanh của cây cổ thụ bỏ vào giỏ đeo cạnh mình, khoác lên mình bộ cánh rồi vỗ cánh bay lên trời. Bỗng chàng phát hiện trên cành cổ thụ ngay dưới chân mình còn treo một bộ cánh hạc, chàng với tay ôm lấy bộ cánh vào lòng.
Cô tiên trẻ nhất, đang nô đùa với mấy cánh bướm quanh khóm hoa rừng, khi thấy các chị đã bay đi mới vội chạy đến bên gốc cây cổ thụ. Cô tiên sững sờ khi thấy trên cành cây không còn bộ cánh của mình, cô bật khóc. Chàng e ngại, vội lấy đôi cánh trả cho tiên nữ. Tiên nữ bảo mình là con của Tây Vương mẫu, một tháng đôi lần cùng các chị tới đây để hái búp Mẫu Thiên Trà mà chàng vừa trú về dâng Ngọc Hoàng. Nàng đau khổ, bộ cánh hạc của nàng chỉ còn bay được đến chính ngọ nên có muốn về trời cũng không kịp. Hơn thế, thiên cơ đã bị lộ, nếu nàng có về thì cũng bị Tây Vương mẫu đuổi xuống hạ giới.
Chàng ân hận, xin lỗi nàng, thật thà kể lại hoàn cảnh và mục đích chuyến đi của mình. Nàng bảo búp lá của Mẫu Thiên Trà chính là vị thuốc chữa bệnh của cha mẹ chàng và dân làng đang mắc phải. Chàng bảo đằng nào cũng phải xuống trần, chi bằng hãy cùng chàng đem búp “Thiên Trà” này chữa bệnh cho cha mẹ và dân làng. Nàng bằng lòng, hai người vội mang những cành Mẫu Thiên Trà cùng đôi cánh hạc trở về ngôi nhà của chàng.
Bố mẹ chàng, sau khi uống bát nước trà vàng óng như mật ong chắt từ búp Mẫu Thiên Trà đã nhanh chóng hồi tỉnh, mọi người vui mừng mời dân làng tới chia vui và chữa bệnh. Chẳng bao lâu, cái bệnh “sớm già” đã bị đẩy khỏi làng bản, vợ chồng chàng đã dạy dân làng ươm trồng những cành trà trời cho để chữa bệnh và bồi bổ sức khỏe hằng ngày.
Cụ già vùng cao Bắc Hà vừa thong thả kể sự tích cây trà cho tôi và anh bạn nhà báo từ Hà Nội lên, vừa nhẩn nha, tỉ mẩn, cẩn trọng pha trà.
Trước chúng tôi, trên chiếc bàn tre đen bóng màu thời gian là bộ ấm chén cổ, gồm 1 cái ấm, 1 chén tổng, 3 cái chén hình quả nhót, mà cụ già bảo là Nhất Tổng Tam quân, đặt trên chiếc khay chân quỳ làm bằng gỗ trắc. Hương trà sực nức hòa quyện với không gian tĩnh lặng như đưa chúng tôi vào cõi thiền. Cụ già bảo, uống trà vào buổi sáng chỉ có nhất. Buổi sáng âm dương giao hòa, không gian tĩnh lặng, khí lực sung mãn, khi chén trà thơm mang tính dưỡng tâm tĩnh trí ngấm vào lục phủ ngũ tạng thần khí sẽ sáng suốt minh mẫn, con người gần với trời đất, con người gần với con người...
Trước chúng tôi, những dãy núi đứng núi ngồi trập trùng xanh, trập trùng mây gió. Dưới thung lũng heo may chưa kịp làm khô da săn thịt thì màu vàng chanh của đồng lúa đã dâng đầy trong mắt, trong lòng. Cảnh vật như lôi chúng tôi vào bến say mê tỉnh, hối thúc nói những lời hay, nghĩ những điều tốt.
Cụ già bảo, muốn có một ấm trà ngon cần có 5 cái cốt yếu, đó là “nhất thủy, nhì trà, tam bôi, tứ bình, ngũ quần anh”, hôm nay thưởng trà ta có đủ cả 5 cái quý này. Đó là nước pha trà được con ngựa quý của già cõng từ ngọn nguồn con suối về; những búp chè trong ấm được hái từ những cây chè tuyết cổ thụ trên lưng núi quanh năm mây phủ; bộ ấm chén hợp với khung cảnh, với khách, với mùa, bởi thưởng trà không quan trọng về lượng mà quan trọng về chất và tinh thần; tứ bình là cách già vừa rửa trà, pha trà, ủ trà, rót trà, mời trà các cháu; còn “ngũ quần anh” tức là việc hai cháu lặn lội từ cuối dòng sông lên đầu dòng sông thưởng trà với già này.
Tôi và bạn lâng lâng đón chén trà từ tay cụ già miền sơn cước, sẽ sàng nhấm nháp hương vị của rừng của núi.
Bất chợt cụ già cất giọng ngâm nga:
Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh sổ trản trà
Nhật nhật cứ như thử
Lương y bất đáo gia!
Tôi và anh bạn nhà báo ồ lên, cả hai không ngờ bài thơ Bán dạ tam bôi tửu nổi tiếng lại được vang lên giữa chốn thâm sơn này. Cảm hứng dâng lên, anh bạn tôi đế theo:
Canh khuya ba chén ruợu
Sớm mai một tuần trà
Mỗi ngày mỗi được thế
Thày thuốc không đến nhà!
Cụ già vuốt râu cười khà khà, ấm trà trong tay cụ lại nâng lên, ông mặt trời đã mang cái lược vàng nghiêm trang chải rừng chải núi…
Nguồn Lào Cai: http://www.baolaocai.vn/bai-viet/349461-uong-tra-o-bac-ha